Mắt hôm nay

Laser trong điều trị nhãn khoa: Bước đột phá diệu kỳ

Trong bệnh thoái hóa hoàng điểm tuổi già, ngoài áp dụng laser quang đông thông thường, gần đây người ta đã đưa ra dạng điều trị mới là laser quang hoạt.

Laser là từ viết tắt của light amplification by stimulated emission of radiation (khuếch đại ánhsáng bằng phát xạ kích thích). Việc sử dụng năng lượng ánh sáng làm thay đổi cấu trúc tế bào nộinhãn thật sự là một bước phát triển của kỹ thuật laser, đặc biệt là trong ngành nhãn khoa.

Vào cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, Meyer-Schwickerath, người tiên phong trong lĩnh vực phẫuthuật nội nhãn, sử dụng ánh sáng mặt trời tập trung và sau đó máy quang đông xenon-arc để điều trịcác bệnh võng mạc.

Năm 1960, Maiman mô tả tia laser với việc sử dụng kính ruby kích thích bởi đèn chớp để thoát ratia sáng đỏ với bước sóng 694nm. Đến nay, khi laser argon sóng liên tục phát triển thì có sự bùngnổ về ứng dụng laser trong bệnh mắt.

Ngoài ứng dụng trong tật khúc xạ (lasik, PRK), laser còn được ứng dụng trong các chuyênngành khác nhau của nhãn khoa. Bài viết này xin giới thiệu ứng dụng của laser trong bệnhglocom vàvõng mạc.

Ứng dụng laser trong điều trị bệnh glocom

Phòng ngừa glocom góc đóng: Ở những bệnh nhân được xácđịnh góc tiền phòng hẹp qua soi góc tiền phòng, hay một mắt đã được mổ glocom cấp, mắt còn lại gócchưa đóng, các bác sĩ sẽ chỉ định cắt mống chu biên bằng laser.

Tia laser tạo một lỗ thủng nhỏ ởchu biên mống mắt giúp thủy dịch lưu thông từ sau mống mắt ra trước dễ dàng hơn, giảm nghẽn đồngtử. Phương pháp này không gây đau, thực hiện rất nhanh, ít biến chứng và có thể phòng ngừa bệnhglocom góc đóng hiệu quả.

Điều trị glocom góc mở: Người ta dùng laser argon đểtạo hình vùng bè (trabeculoplasty) trong những glocom góc mở không kiểm soát được bằng Thu*c,glocom sắc tố. Tia laser phá hủy những tế bào và chất ngoại bào làm phóng thích các chất trunggian, kích thích những tế bào nội mô vùng bè giúp tăng thoát lưu thủy dịch qua vùng bè, đồng thờiquá trình lành vết thương tạo sẹo gây co kéo lớp sợi collagen vùng bè làm tăng thoát lưu thủydịch.

Quang đông thể mi: Trong bệnh glocom tuyệt đối đaunhức, glocom không đáp ứng Thu*c và phẫu thuật, glocom tân mạch không còn thị lực do biếnchứng của bệnh tiểu đường, tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc… laser diode có tác dụng hủy thể mitrực tiếp làm giảm tiết thủy dịch giúp hạ nhãn áp, giảmđau nhức.

Ngoài ra, laser còn dùng để tạo hình vùng bè trong góc đóng cấp (laser iridoplasty),cắt chỉ khâu, tạo hình mống mắt, cắt bao sau mổ lấy thủy tinh thể và đặt kính nội nhãn…

Ứng dụng laser trong điều trị glocom là một sự tiến bộ vượt bậc của y học từ giữa cuối thế kỷXX, và hứa hẹn sẽ có nhiều ứng dụng mới trong điều trị bệnh glocom nói riêng và nói chungtrong thế kỷ XXI.

Ứng dụng laser trong điều trị bệnh võng mạc

Để bệnh lý võng mạc, người ta ứng dụng hai tác động tương tác của laser lên mô là nhiệtvà quang hóa. Trong tác động nhiệt của laser lên mô, có sự biến đổi năng lượng từ ánh sáng sangnhiệt khi mô hấp thụ ánh sáng, gây biến tính protein và tạo ra sự đông kết mô. Tác động này gọi làquang đông (photocoagulation) và được sử dụng nhiều nhất.

Các chỉ định thường gặp của laser trong bệnh lý võng mạc là bệnh võng mạc đái tháo đường, tắctĩnh mạch võng mạc, vết rách võng mạc, tân mạch võng mạc, tân mạch hắc mạc, các bất thường vi mạchhắc võng mạc, u nội nhãn, bệnh võng mạc ở trẻ sinh non.

Bệnh võng mạc đái tháo đường: Đối với bệnh võng mạc đáitháo đường, người ta có thể áp dụng ba hình thức laser sau:

(1) Chiếu laser trực tiếp lên các vi phình mạch để tiêu diệt chúng nhằm chấm dứt hiện tượng ròrỉ;

(2) Chiếu laser theo dạng lưới lên hoàng điểm để giúp giảm phù hoàng điểm;

(3) Quang đông rải rác toàn võng mạc nhằm tiêu diệt bớt những vùng võng mạc bị thiếu máu - nơisản xuất yếu tố tăng sinh mạch máu, giúp tránh sự tạo thành tân mạch và có thể gây thoái lui tânmạch đã hình thành.

Trong thực tế, laser có thể ổn định hoặc cải thiện thị lực ở bệnh nhân có bệnh võng mạcđái tháo đường nếu ổn định đường huyết và các bệnh đi kèm như cao huyết áp, tăng lipidmáu.

Tắc tĩnh mạch võng mạc: Trong bệnh tắc tĩnh mạch võngmạc, khi có phù hoàng điểm nhiều hoặc hiện tượng thiếu máu võng mạc rộng có nguy cơ hay đã gây tânmạch võng mạc, người ta cũng áp dụng nguyên tắc như trong bệnh võng mạc đái tháođường.

Phòng ngừa bong võng mạc: Khi có vết rách võng mạc hoặcnhững vùng võng mạc bị thoái hóa, nguy cơ gây bong võng mạc, bệnh nhân sẽ được chiếu hai-ba hànglaser xung quanh vết rách nhằm tạo sẹo dính võng mạc vào hắc mạc bên dưới để tránh bongvõngmạc.

Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non: Trong trường hợp trẻ sinhnon có bệnh võng mạc do sinh non, chiếu laser sẽ làm ch*t vùng võng mạc không có mạch máu nuôi.Việc này nhằm tránh sản xuất các yếu tố tăng sinh mạch nên không có sự hình thành tân mạch và do đótrẻ sẽ không bị mù.

Bệnh thoái hóa hoàng điểm tuổi già : Đối với trường hợpcó tân mạch hắc mạc như trong bệnh tuổi già, ngoài áp dụng laser quang đông thông thường, gần đâyngười ta đã đưa ra dạng mới là laser quang hoạt (PDT photodynamic therapy), ứng dụng tácđộng quang hóa.

Người ta sẽ đưa vào mạch máu chất cảm quang (ví dụ như verteporfin). Chất này sẽ đọng lại nhiềuở các mô tân sinh như tân mạch hắc mạc. Khi chất cảm quang hấp thụ laser, sẽ xảy ra một loạt cácphản ứng quang hóa, với sản phẩm cuối cùng có khả năng làm tắc mạch (tức là làm ch*t) tổ chức tânmạch hắc mạc. Ưu điểm của quang hoạt là sử dụng năng lượng laser nhỏ nên ít gây tổn thươngcác mô bình thườngchung quanh.

Tóm lại, laser là một biện pháp quan trọng không thể thiếu trong nhiều bệnh lý võng mạcvà bệnh glocom. Hiện, Bệnh viện Mắt TPHCM có trang bị máy laser các loại cùng với đội ngũ bác sĩchuyên khoa glocom và võng mạc, có thể thực hiện hầu hết các kỹ thuật trên.

Theo ThS-BS Võ Quang Hồng Điểm Bệnh viện Mắt TPHCMPhụ nữ TPHCM

Mạng Y Tế
Nguồn: Alo bác sĩ (http://alobacsi.com/laser-trong-dieu-tri-nhan-khoa-buoc-dot-pha-dieu-ky-n200813.html)

Tin cùng nội dung

  • Ung thư và quá trình điều trị ung thư sẽ làm thay đổi khẩu vị. Nên chọn các thực phẩm giàu đạm và trình bày đẹp mắt để giúp cho khẩu vị ngon hơn
  • Phần lớn những tác dụng phụ liên quan đến việc ăn uống do điều trị ung thư sẽ biến mất sau khi kết thúc quá trình điều trị. Vài lời khuyên cho một chế độ ăn uống tốt sau trị liệu ung thư.
  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY