Trong các bài thơ của Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh có hai bài kệ nổi tiếng khác, đó là bài Thất châu và bài Thị tịch "Nhật nguyệt tại nham đầu Nhân nhân tận thất châu, Phú ông hữu câu tử Bộ hành bất kỵ câu " Dịch nghĩa rút trong "Thơ văn Lý Trần": Mặt trời,mặt trăng kế nhau mọc trên đầu núi. Trên cõi đời này người nào người ấy đều đánh mất hạt ngọc của mình. Như anh nhà giàu có con ngựa hay lại đi bộ mà không cưỡi ngựa. Dịch thơ: "Nhật nguyệt tại non đầu Người người tự mất châu kẻ giàu sẵn ngựa mạnh, Bộ hành chẳng ngồi xe". (Bản dịch của Hoà Thượng Thanh Từ rút trong " Thiền sư Việt Nam" theo "Danh thắng chùa Thầy" của thượng toạ Thích Viên Thành ): Bài kệ thứ hai : Thị Tịch Thu lai bất báo nhạn lai quy, Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi, Vị báo muôn nhân hưu luyến trước Cổ sư kỷ độ tác kim sư. Dịch nghĩa theo "Thơ văn Lý Trần": Mùa thu về không báo tin cho chim nhạn cùng về. Đáng cười người đời cứ nảy sinh buồn thương trước cái ch*t . Khuyên các môn đệ chớ có vì ta mà quyến luyến, Thầy xưa đã bao nhiêu lần hoá thân làm thầy nay. Dịch thơ: (Bản dịch của Ngô Tất Tố) "Thu về chẳng báo nhạn theo bay, Cười nhạt người đời uổng xót vay Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến, Thầy xưa mấy lượt hoá Thầy nay". Bài viết chỉ tổng hợp và chọn lọc những chi tiết có thể kết luận là có thật về đức Từ Đạo Hạnh. Gạt đi những sương khói huyền thoại, chúng ta không có nhiều tư liệu hơn về Đức Thánh nhưng những điều biết về Đức Từ Đạo Hạnh, một cao tăng có thật đã trụ trì ở Chùa Thầy đủ kết luận ngài là một tăng quan, một vị tổ sư phái Mật tông, một thầy Thu*c, một thầy nghề và đặc biệt là một nhà thơ lớn, học thuật sâu sắc thời Lý. Cùng với công lao xây dựng chùa và công đức của Đức Từ đạo Hạnh, ngài đã được công nhận là Đức Thánh tổ sư ở Chùa Thầy. 2.Đại sa môn Huệ Hưng Không có nhiều tư liệu chi tiết về vị sư này, song có thể chắc chắn rằng; Ông tu tại chùa Thiên Phúc cùng thời gian và nhiều khả năng ông là đệ tử của đức Từ Đạo Hạnh. Đại Sa môn Huệ Hưng là tác giả của bài văn "Thiên Phúc tự hồng chung minh văn" trên chuông đồng soạn theo yêu cầu của đức Từ Đạo Hạnh. Chuông được đúc sau 6 năm Đức Thánh trụ trì ở Thiên Phúc. Ở cuối bài văn trên chuông có đề: "Ngày 9 tháng 8 năm Kỉ Sửu, niên hiệu Long Phù nguyên niên (1109) đúc chuông. Đại sa môn áo tía chùa Thiên Phúc Huệ Hưng soạn." Đại Sa Môn mặc áo tía có nghĩa là một tăng quan. Điều đò chứng tỏ Huệ Hưng và đặc biệt Đức Từ Đạo Hạnh có uy tín và vai trò cao ảnh hưởng to lớn trong triều đình nhà Lý. Cũng chứng tỏ phật giáo tuy chưa phải là quốc đạo song đã được nhà Lý hết sức coi trọng. Bài văn trên chuông mà Huệ Hưng soạn là tài liệu cùng thời với thánh tổ Từ Đạo Hạnh còn lại đến nay. Chuông được đúc năm 1109, sau đó đến năm 1789 bị phá để đúc tiền. Rất may bài văn này đã được đưa vào tác phẩm ''Kim văn loại tự''. Đây là tài liệu tin cậy nhất để chúng ta biết những gì có thể về con người thật của Đức Thánh tổ Từ Đạo Hạnh ngoài những lớp sương khói huyền thoại về Người. Ngoài tài liệu này, chúng ta có thể tìm tư liệu bổ sung ở nhiều tài liệu giá trị khác nhưng phải xếp sau nó như "Thiền uyển tập anh", ''Việt Điện U Linh'', ''Lĩnh Nam Chích Quái'', '' Đại Việt Sử Ký Toàn Thư'' v v bởi nhiều yếu tố tồn nghi, huyền thoại. Bài văn chuông của Huệ Hưng giúp ta có được những tư liệu quan trọng chứa đựng nhiều thông tin tin cậy nhất về thánh tổ Từ Đạo Hạnh và việc xây dựng chùa Thiên Phúc đến nay còn lưu giữ được. Đây là đoạn văn trích trong bài văn chuông mô tả khung cảnh Sài Sơn Phật Tích:''Qua một dòng sông ,thấy một ngọn núi xanh, men đá mà bước lạc tục trần, vịn dây mà thân lên thượng giới,Ngọn núi ấy sừng sững như Lăng Già bao bọc,vằng vặc một vầng trăng thu. Có bậc thang lạ, dẫn vào khám Phật tròn bằng đá. Mây ngũ sằc vần vụ, ngọc thất châu buông rèm. Lưới nhện đan xen, áo tơi rực rỡ. Bên dưới núi còn dấu thờ Phật, ở giữa có đài nghê nguy nga. Dấu Phật đó, ngọc trắng dưới đáy, rồng xanh cuộn bên ngoài; đài nghê đó, tê giác trấn bên cạnh, đèn chuỗi sáng lung linh. Há đây giống phòng nghi trượng, mà chính là ngọn Thứu Phong vậy. Ngày xưa, có bậc ẩn sĩ công đức dựng nên, đâu phải là sự tạo tác khác thường của bậc thần linh vậy'' (Dẫn theo Nguyễn Thị Dung - Trường Phong, bản dịch lấy trong ''Văn bia thời Lý'' Nguyễn Văn Thịnh chủ trì, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H 2010,tr 95- 112). Còn đây là đoạn văn tả việc xây dựng chùa:" Bèn sai thợ giỏi, chọn đất trung tâm. Dựng điện ngọc sáng rực bốn phương, đặt tượng vàng nghiêm trang chiếu toả. Mọi người truyền lời đó, rừng tiếng vút cao. Trong chốc lát, các thiện nan, nữ tín kéo về; chẳng mấy ngày mà cảnh chùa đã hiện rõ. Tìm xẻ gỗ quý, đắp lò ngói xanh. Dấu mực thước dọc ngang,tiếng búa rìu chan chát. Nguy nga viện mới, sừng sững lầu cao. Trồng thông cho lối dẫn mát lành; vun hoa để cảnh quan thơm mát" (Dẫn theo Nguyễn Thị Dung- Trường Phong, bản dịch lấy trong ''Văn bia thời Lý'' Nguyễn Văn Thịnh chủ trì, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H 2010,tr 95- 112). 3.Sơn Tăng Như Tùng Nhà sư có tên là Thông Thi ( người Sài Sơn vẫn thường gọi là sư Mậu ), hiệu là Như Tùng, người Cổ Nhuề, sinh năm 1900 và viên tịch ngày 24-3- 1945. Sơn Tăng Như Tùng trụ trì chùa Đính Sơn (còn gọi lá Hiển Thuỵ Am) và chùa Một Mái (Bối Am Tự) Chùa Thầy, vào khoảng những năm thập kỷ 30 thế kỷ 20. Chính nhà sư Như Tùng đã dùng chữ Nôm thảo một bức điệp phổ khuyến khách thập phương góp công tôn tạo thắng tích Sài Sơn. Bài khải này đã đền tay cử nhân Hoàng Thúc Hội người làng Yên Quyết (còn gọi là làng Cót-Từ Liêm) , ông đỗ cử nhân khoa Mậu Ngọ 1906 niên hiệu Thành Thái thứ 18 triều Nguyễn song không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Cử nhân Hoàng Thúc Hội cảm động, có về Đa Phúc- Sài Sơn dạy học chữ Hán và giúp đỡ Như Tùng san định lại các tác phẩm của ông. Năm 1930, nhà sư Như Tùng cho ra tác phẩm khắc gỗ "Sài Sơn thi lục" tập hợp các tác phẩm thơ phú của lịch đại danh gia các nhà khoa bảng viết về Chùa Thầy và núi Sài Sơn. Năm 1940, nhà sư Như Tùng cho ra tác phẩm "Sài Sơn Từ thần tăng thực lục" gọi tắt là "Sài Sơn thực lục" ghi chép về vị thần tăng họ Từ ở Sài Sơn. Cả hai tác phẩm trên, tác giả chính là Như Tùng mà biên tập là Hoàng Thúc Hội. Ngoài ra, nhà sư Như Tùng đã kể và cung cấp tư liệu giúp cử nhân Hoàng Thúc Hội ghi "Truyền đăng bi ký" tóm tắt hành trạng của hai vị tổ sư trước Như Tùng trụ trì Đính Sơn Tự, đó là nhà sư Lan Hương trụ trì 3 năm (1897-1900) và nhà sư Tâm Minh trụ trì 6 năm (1900-1906) cả hai sau khi thị tịch đều được xây tháp tại chùa. Có thể nói Như Tùng và Hoàng Thúc Hội là đồng tác giả của hai tác phẩm " Sài Sơn thi lục", "Sài Sơn thực lục" mà Như Tùng là tác giả chính. Đây là hai tác phẩm có nhiều tư liệu quý về Chùa Thầy. Theo Đại Đức Thich Minh Đạo hiện trụ trì Đính Sơn Tự và Đại Đức Thích Minh Hà hiện trụ trì Bối Am Tự (chùa Một Mái) thì nhà sư Như Tùng rất giỏi Hán Nôm. Đại đức Thích Minh Đạo cho biết đôi câu đối trước cổng chân nùi lên chùa Đính Sơn ( Chùa Cao) Tàc giả chính là Như Tùng: Đăng cao tự ti nhất bộ tiến nhất bộ. Vô vãng bất phục cá quan hựu cá quan Dịch theo "Non nước Chùa Thầy" của H T Thích Viên Thành: Muốn lên trên cao thì phải đi từ dưới thấp, mỗi bước lại tiến thêm một bước. Không có sự ra đi nào mà không trở lại, cổng này đến cổng kia. Đại Đức Thích Minh Hà cũng cho biết đôi câu đối chữ Nôm ở cổng Trắng (đường từ Thụy Khuê vào chùa Bối Am) là của tác giả Như Tùng: Xây trụ chia non xanh không ba đường ác. Trồng hoa ngăn bụi đỏ có một cửa từ. và: Trời đất đứng riêng quyền khép mở Nước non ngăn rộng lối tu hành Cả hai câu đối trên đều được cụ Nguyễn Huy Vỹ, một cụ túc nho làng Thuỵ Khuê cùng Đại đức Hà trực tiếp đọc và ghi lại. Theo Thượng tọa Thích Viên Thành và Đại Đức Hà cho biết Nhà sư Như Tùng còn là tác giả của câu đối: "Thiên địa do y thiên địa cựu Thảo hoa kim dị thảo hoa tiền" Như Tùng tự dịch: "Trời đất vẫn nguyên trời đất cũ Cỏ hoa nay khác cỏ hoa xưa" Tôi được Đại đức Thích Minh Đạo dẫn tới Tam Bảo Đính Sơn Thiền Tự. Hiện trong tam bảo có bức đại tự "Thiên Phúc Đính Tự" hai bên có đôi câu đối của cử nhân Hoàng Thúc Hội: Dục tú chung linh thử hữu sùng sơn đường Thứu Lĩnh Ly trần nhập giác khả ư nghiệt hải thiếp kình ba (Núi hun sông đúc nên anh tú, nơi đây có núi cao sánh cùng non Thứu/ Lìa bụi trần vào cõi giác, làm lắng sóng kình trong bể khổ - Thượng Toạ Thích Trường Xuân dịch) Hai bên bức đại tự nói trên là hai bức cuốn thư sơn son thiếp vàng còn lưu giữ hai bài thơ chữ Nôm của Sơn Tăng - Như Tùng đề năm 1941 (Bảo Đại Tân Tỵ niên). Đại đức Đạo đã trực tiếp đọc. Bức thứ nhất tán dương Đức Thánh Tổ Sinh hoá hai ba kiếp Non nước bốn ngàn thu Khí thiêng trên động bích Còn tưởng dấu thanh tu Sơn Tăng bái đề Bảo Đại Tân Tỵ niên Bài thứ hai tán dương cảnh chùa Thầy Trên trời cùng dưới đất Không đâu được như Phật Thiên hạ danh thắng nhiều Sơn Tây đây đệ nhất Sơn Tăng bái đề Bảo Đại Tân Tỵ niên Theo Thượng tọa, câu cuối trong bài dịch "không hữu" của Huyền Quang (tương truyền dịch giả là Huyền Quang, vị sư tổ thứ ba thiền phái Trúc Lâm) chưa thoát ý: Thượng tọa nhận xét:"Theo triết lý không của Bồ Tát Long Thụ thì mọi sự vật trong hiện tượng giới đều là nhân duyên sinh, không có thực thể, do đó không thể nói là không, bởi vì nó vừa là màn che, vừa là dấu hiệu, qua đó chúng ta tìm tới thực tại. Cũng như ánh trăng dưới nước, tuy không phải là mặt trăng thật nhưng là dấu hiệu qua đó chúng ta tìm ra mặt trăng thật. Vì vậy chấp có hay chấp không đều sai. Câu 4 trong bản dịch thơ dùng chữ mơ màng có thể gây hiểu lầm. Phật tử không được có thái độ mơ màng đối với sự vật mà phải có cái nhìn thật sự cầu thị, không chấp hữu cũng như không chấp không, đều có đạo lý minh bạch chứ không có cái gì là mơ màng hết". Trường hợp bài "Thị Tịch", bản dịch của Ngô Tất Tố cũng được Thượng tọa nhận xét đánh giá: "Chỉ có câu đầu theo tôi là dịch đúng ý của tác giả. Ý tác giả là mùa thu về chim nhạn cũng bay về, cũng như thọ mệnh hết thì con người cũng bay về, tức ch*t. Báo hay không báo cũng vậy mà thôi". Dưới đây xin trích giới thiệu một số bài thơ và dịch thơ của Thượng tọa Thích Viên Thành Tạm biệt chú đi tu (Trích) "Chú ơi ơn nghỉa cháu không quên Nguyện chứng Chân Như sẽ báo đền Chú ở lại nhà xây tổ nghiệp Cháu đi cầu pháp cứu oan khiên Kẻ vun cội Đức cho tươi tốt Người đắp nền Nhân thật vững bền Chú cứ yên tâm đừng có ngại Cháu thề cố gắng quyết tu lên" Tháng1/1962 Tạm biệt quê hương ( trích) "Sáng nay hàng xóm tiễn chân đi Nhìn lại quê hương biết nói gì Vầng ác chưa lên còn tối đất Bụi hồng chửa bợn tấm thanh y" Tháng 6/1962 Nguyện I Thắp trước Phật đài một nén hương Rì rầm nguyện dưới bóng từ lương Hữu tình tăm tối thề giong đuốc Hàm thức mê man quyết dẫn đường Biến cõi trầm luân thành tịnh độ Bắc cằu hành nguyện tới tây phương Dù gian khó không lùi bước Khoác áo Như Lai để tự cường. II Đã vì chân lý tới am mây Còn có lo gì đắng với cay Sắt thép bền tâm thề giữ đạo Đá vàng vững chí nguyện ăn chay Gió to sóng cả từng quen thuộc Nắng lửa mưa tro đã dạn dày Nhẫn nhục độ sinh theo gót phật Làm cho biển phúc được chan đầy. Tháng 3/1965 Vịnh cây thông Sống mấy trăm năm một cuộc đời Mặc ai sầu héo vẫn vui tươi Tuy thân đã dạn dày sương gió Vẫn đứng hiên ngang tận đỉnh đồi . Tháng 2/1966 Dịch thơ Thiền Sư Mãn Giác Xuân đi hoa rụng tả tơi Xuân về hoa lại khoe tươi đầy cành Sự đời trước mắt qua nhanh Cái già đã đổi tóc xanh trên đầu Nhưng đừng tưởng hết xuân đâu Đêm qua trước gió phô mầu bông mai . Tháng 11/1968 Phong kiều Dạ Bạc (dịch thơ Đường) Trăng lặn quạ kêu sông nhuộm sương Lửa chài gây bén giấc sầu vương Thuyền ai ghé bến Cô Tô đậu Trong viện Hàn Sơn vắng tiếng chuông . Tháng 11/1968 Gặp các Nho Sĩ Già (Tặng nhóm nho sĩ Mai Lâm) Từ lúc tôi vào Hương Tích tu Được giao đón tiếp khách xuân du Mới hay biển học nhiều thi bá Càng rõ rừng nho lắm trượng phu Nhân hiếu sáng ngời nền Khổng, Mạnh Trung hoà rạng rỡ cửa Trinh , Chu Nhà cổ vẫn còn người chống giữ Hẳn còn truyền lại đến ngàn thu . Tháng 6/1969 5.Thượng Toạ Thích Trường Xuân Thượng Toạ có pháp danh Thích Trường Xuân, Sinh 13 -12 -1970, Tại Sơn Ninh, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Tp Hà Nội, Xuất gia năm 1985 tại Chùa Thầy, (Trụ trì chùa Long Đẩu ), Thụ giới Thanh Văn năm 1992 chùa Văn Quán Đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội- Khoa ngữ văn và là cử nhân Phật học Thượng Toạ đã từng là uỷ viên thường trực kiêm trưởng ban hướng dẫn Phật tử nhiều khoá, là giảng viên trường trung cấp Phật học Hà Nội khoá 2 ,3,4,6 . Hiện nay là uỷ viên thường trực kiêm trưởng ban hướng dẫn Phật tử Phật giáo Hà Nội, Thượng toạ Thích Trường Xuân đã có nhiều công lao xây dựng, tôn tạo môi trường cảnh quan thắng tích, chăm sóc sinh linh. Thượng Toạ đã qua lớp đào tạo ngắn hạn trình độ đạo diễn sự kiện lễ hội, lại có nhiều hiểu biết và khả năng trình diễn nghệ thuật cheò, thơ nên đã tổ chức hoặc giúp đỡ tổ chức lễ hội, văn nghệ, văn học nghệ thuật, thơ ca quê hương Chùa Thầy rất tốt. Thượng toạ rất quảng giao; thường xuyên tiếp kiến với Hội nhà văn, nhiều nhà văn nhà thơ, nghệ sĩ nổi tiếng. Đặc biệt năm 2012 Thượng toạ tổ chức thành công và có tiếng vang giao lưu thơ với các nhà thơ quốc tế Châu Á Thái Bình Dương tại chùa Long Đẩu. Thượng Toạ Thích Trường Xuân sáng tác nhỉều thể loại thơ, văn xuôi, nghiên cứu. Các tác phẩm của Thượng Toạ được đăng in trên các báo và tạp chí ở Trung ương, chuyên ngành và địa phương. Hiện Thượng Toạ là chủ nhiệm danh dự câu lạc bộ Văn Học Nghệ Thuật Sài Sơn. Năm 2013 -Thượng Toạ Thích Trường Xuân là tác giả bài thơ "Những tiếng Chuông Hồng" được đọc mở đầu cho Ngày Thơ Việt Nam - Nguyên Tiêu 2013 tại Văn Miếu Hà Nội do chính Thượng toạ tự trình bày, có ấn tượng và sức lay động lớn. Thơ của Thượng Toạ Thích Trường Xuân giàu hình ảnh gợi cảm, nhiều nhạc tính, dạt dào cảm xúc, tình yêu quê hương đất nước, yêu cảnh vât thiên nhiên và con người; Một tình yêu rất quảng đại, nhân văn và đậm dấu ấn, phong cách tu hành, Phật giáo. Dưới đây xin trích giới thiệu bốn bài của Thượng toạ Thích Trường Xuân: Những Tiếng Chuông Hồng. Én liệng xuân trời cao Nhẹ bay cánh hoa đào Gió đùa lay cành biếc Nụ chồi tràn sức xuân Theo nhịp mỗi bước chân Dập dìu sông núi hội Tiếng biển xa hát gọi Lời ca hoà chuông ngân Đảo xa trên biển biếc Sóng trào dâng tím bờ Oai hùng tiếng trống trận Vọng về từ ngàn xưa Cửa chùa xuân rộng mở Đón hồn thiêng biển trời Chín mươi triệu ánh mắt Cùng nở hoa một lời Chín mươi triệu lồng ngực Chín mươi triệu chuông hồng Đồng thanh cùng biển hát Vĩnh hằng cho non sông. Hồi sinh Trong rừng sâu những chiếc lá lìa cành Cứ lặng lẽ trải mình qua năm tháng Chẳng kêu ca chẳng đau đớn giận hờn Rồi một ngày bình minh trong sáng hơn Giữa đại ngàn một mầm non trỗi dậy Toả màu xanh che kín khoảng trống xưa Lá ngẫm mình đã hoàn thành nhiệm vụ Hoá thân mình cho sự sống ngày mai Hoa xuân nở Xuân về Làn Mát nở trắng hoa Đại cũng chen chân một sắc hoà Núi xanh gạo đỏ như tranh vẽ Sài Sơn thực là bức gấm hoa Chút hồn quê Hè về nhớ bát canh chua Nhớ canh rau bợ nấu cua, mẹ làm Cơm ăn no bụng còn ham Canh rau muống luộc chứa chan bao tình Cà ngâm muối mặn trắng tinh Gợi cho ta nhớ bóng hình của ai Dù cho cách vạn đường dài Xa quê vẫn nhớ bóng ai âm thầm Hồn quê giữ trọn trong tâm Xa quê mới thấy tình thâm quê nhà Như chúng tôi đã đề dẫn: Chùa Thầy là một vùng trầm tích văn hoá qúi, rất phong phú và đa dạng cần được các nhà chuyên môn nghiên cứu, bảo tồn, khai thác sử dụng. Người viết bài này kiến văn nông cạn, dẫu chỉ mới đi vào một khía cạnh nhỏ đã cảm thấy khó khăn, bất lực. Mặc dù đã dựa trên nhiều tài liệu để tổng hợp và khảo cứu, xác minh song gặp nhiều vấn để trở ngại, bất khả kháng. Chùa Thầy đã có 1000 năm nay, các thư tịch liên quan còn lại rất ít, Các vị sư trụ trì từng thời kỳ ở đây không thể có tư liệu để biết hết. Dĩ nhiên những vị sư có đóng góp văn chương và học thuật càng không thể thống kê tìm hiểu. Với ý thức biết đến đâu nói đến đấy, lại dựa vào những tài liệu và thực tiễn để khảo cứu, chắc chắn bài viết không khỏi thiếu khoa học, rất có thể có chỗ cần được điều chỉnh, xin được lượng thứ. Hy vọng bài viết là một gợi ý nhu cầu cho những khảo cứu chuyên sâu và đầy đủ hơn của các tác giả khác. Trân trọng cảm ơn. Phan Bá Ất/Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5 năm 2014 - TÀI LIỆU THAM KHẢO - "Chùa Thầy và Thiền Sư Từ Đạo Hạnh qua di văn Hán Nôm thời Lý Trần"- Nguyễn Thị Dung- Trường Phong - " Tài liệu Hán Nôm về Chùa Thầy"- PGS TS Đinh Khắc Thuần. Viện nghiên cứu Hán Nôm. - "Chùa Thầy Vi diệu"- Hoà thượng Thích Giác Toàn. - "Thánh tổ Từ Đạo Hạnh trong bối cảnh Phật giáo triều Lý xứ Đoài"-PGS TS Nguyễn Hữu Sơn.Viện văn học -"Chùa Thầy và thiền sư Từ Đạo Hạnh"- Hoà thượng Thích Gia Quang,Phó tổng thư ký hội đồng trị sự trung ương hội Phật Giáo Việt Nam - "thiền sư Từ Đạo Hạnh và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc"- Nguyễn Hữu Vinh dịch và giới thiệu, Thích Thiện Niệm đính chính. - "Thuyền môn thi ký"- HT Thích Viên Thành -"Danh thắng chùa Thầy"- Thích Viên Thành. - "Tiểu sử Hoà Thượng Thích Viên Thành"- Thích Minh Hiển - "Ký ức về Hoà Thượng viện chủ Chùa Hương với thiện nguyện giáo dục tăng ni phật tử"- HT Thích Thanh Ân NHÀ SƯ NHƯ TÙNG VÀ BÀI VĂN PHỔ KHUYẾN XÂY DỰNG CHÙA CAO Ở SÀI SƠN LƯU ĐÌNH TĂNG Viện Nghiên cứu Hán Nôm Chùa Cao là một ngôi chùa có danh tiếng nằm trên núi Sài thuộc khu vực chùa Thày ở xã Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý, trong khu vực chùa còn có am thánh hóa, nơi thánh tổ Từ Đạo Hạnh thoát xác để có điều kiện quay lại trần thế ở ngôi Hoàng đế nhà Lý. Phả tích và các tư liệu thành văn có ở chùa ghi nhận, chùa luôn có sư tổ kế đăng nên cảnh chùa thực sự trang nghiêm. Đến đầu thế kỷ 20 này Hòa thượng Như Tùng là vị sư trụ trì ở đây. Pháp danh của Hòa thượng Thích Thanh Thi còn Như Tùng chỉ là tên hiệu, song dân địa phương vẫn quen gọi Hòa thượng là sư Như Tùng. Hòa thượng sinh và mất năm nào không rõ, chỉ biết năm 1906 khi sư tổ Minh Tâm viên tịch, thì Hòa thượng Như Tùng chính thức trở thành sư trụ trì ở chùa Cao, cho đến năm 1940 Hòa thượng còn đứng ra hưng công san khắc bộ sách Sài Sơn thánh tích thực lục ghi chép sự tích Thánh tổ Từ Đạo Hạnh. Các tư liệu đó cho thấy Hòa thượng đã trụ trì ở đây suốt nửa đầu thế kỷ 20. Trong năm mươi năm đó Hòa thượng đã mang hết tâm sức lo liệu công việc của chùa, nào là xây tòa tam bảo, nào là tu sửa đường núi lên động, nào xây nhà thiêu hương, nào sửa am Thánh hóa… đặc biệt là việc in kinh sách. Có hàng chục bộ kinh sách viết về chùa Thày hoặc có liên quan đến chùa Thày đã được in ở thời kỳ này như Sài Sơn Thánh tổ đại thừa chân kinh, Sài Sơn Thánh tích thực lục, Sài Sơn thi lục, Thánh tổ linh sám v.v… Kết quả của các việc làm đó đã khiến cho cảnh chùa ngày càng thu hút sự mến mộ của khách thập phương. Nhiều người đã ca tụng công đức ấy, chẳng hạn như Cử nhân Nguyễn Sư Hoàng khi được đọc tập Sài Sơn thi lục đã viết: “Đáng khen thay nhà sư Như Tùng đã có chí có học lại có tâm với bảo tồn vốn cổ, thực đáng là hào kiệt ít thấy trong hàng Sa môn vậy”. Thật vậy Hòa thượng Như Tùng là một người có tâm với đạo với đời, chính Hòa thượng đã tự bộc bạch lòng mình trong bài văn phổ khuyến xây dựng chùa: “Chùa Sài Sơn, là một cảnh danh thắng của nước Nam ta, ngàn năm về trước có đức thánh Từ tu luyện ở đó, tới nay dây hóa vẫn còn, đâu đâu cũng đã biết tiếng. Nói cảnh thiên nhiên là một cảnh đẹp trong nước, vậy thì tô điểm non sông trong tổ quốc cũng là chức trách của quốc dân ta. Nay tôi theo cảnh thiên nhiên thêm công tu bổ để muốn công đức chung cùng thiên hạ, há phải bán danh cầu phúc mượn tôn giáo mà lấy sự lợi riêng đâu?”. Nguyên văn bài Phổ khuyến viết bằng chữ Nôm giới thiệu khái quát về những công việc mà Hòa thượng dự định sẽ làm trong tương lai, lời lẽ thực sự khẩn thiết thấm vào lòng người. Đọc đi đọc lại nhiều lần tuy đôi chỗ còn hạn chế về mặt tư tưởng, song chúng tôi nhận thấy rằng đây có thể coi là tư liệu Hán Nôm đáng trân trọng, không chỉ để nghiên cứu về một danh thắng chùa Thày, mà còn có ích cho việc nghiên cứu Phật học đầu thế kỷ này. Do vậy xin được phiên âm, chú giải và giới thiệu toàn văn bài phổ khuyến đó. Sơn tăng Như Tùng có lời kính khải(1) như sau này. Chùa Sài Sơn tôi nay có hưng công sửa sang việc phúc quả tưởng cũng là công trình lớn lắm. San khắc một bộ kinh mục(2) là Sài Sơn thánh tổ đại thừa chân kinh; một bộ Linh sám; một tập thơ của các vị danh hiền đề vịnh Sài Sơn xưa nay, mục là Sài Sơn thi lục, và tân chế hương án, cửa võng, hoành biển, đối liên các hạng, trù tạo(3) một tòa nhà tổ cùng sửa sang nội tự các sở, sửa một con đường từ chân núi cho lên đến chùa, phí tổn nhiều lắm mà hiện nay chùa có không được là bao, mong sao được hoàn toàn việc phúc. Đã vậy có câu rằng: “Hợp mây nên mưa, tích da thành áo”. Lời đó là nhẽ thường, nhưng đương thời đại văn minh tiến hóa này, mà đem nói đến việc tôn giáo thần quyền, chẳng cũng quê lắm, cổ lắm mà khó nói lắm ư? Song thiết nghĩ tự khai thiên lập địa tới nay, văn minh như Âu Mỹ cũng vẫn có thần quyền để duy trì nhân tâm. Cường thịnh như Nhật Bản ở Á Đông cũng vẫn suy diễn Phật đạo để mở rộng đường bác ái. Nước Nam ta bốn nghìn năm nay bao giờ cũng vẫ có thần quyền, tôn giáo. Đã có tôn giáo, thần quyền thì phải trọng âm chất(4). Càng văn minh càng nên trọng thần quyền, có âm chất thì phải trọng tôn giáo, thế thì việc phật thần chung, kính thờ chung tức là nghĩa vụ chung vậy. Phương chi chùa Sài Sơn là một cảnh danh thắng của nước Nam ta. Nghìn năm về trước có đức thánh Từ tu luyện ở đó, tới nay dấu hóa vẫn còn, đâu đâu cũng đã biết tiếng. Nói cảnh thiên nhiên là một cảnh đẹp trong nước, vậy thì tô điểm non song trong tổ quốc cũng là chức trách của quốc dân ta. Nay tôi theo cảnh thiên nhiên thêm công tu bổ, muốn công đức chung cùng thiên hạ, há phải bán danh cầu phúc, mượn tôn giáo mà lấy sự lợi riêng đâu? Xin đem việc phúc quả để kính đạt mấy các vị danh hiền, các nhà thiện tín, đã đăng lâm(5), biết cảnh biết chùa, lại sẵn có hằng tâm hằng sản cùng phát tâm trợ cúng, thì may việc phúc quả cũng có thể viên thành được, nên dám có mấy lời kính tự. Còn như làm phúc được, báo ứng nhẽ thường thì tôi không phải nói. Nay kính khải. Hải nội danh hiền thập phương thiện tín nhã giám(6). Chú thích: 1. Khải: Trình bày, bẩm báo. 2. Mục: Đề mục, đề bài. Ở đây chỉ vào các bộ sách kinh được in. 3. Trù tạo: Quy hoạch xây dựng. 4. Âm chất: Chỉ việc làm thiện ở cõi nhân gian thì bản thân và con cháu mai sau sẽ được hưởng nhiều phúc quả. 5. Đăng lâm: Tức là lên rừng, xuống biển, ý chỉ các cuộc du thưởng thắng cảnh non nước của các tao nhân mặc khách thời xưa. 6. Hải nội danh hiền thập phương thiện tín nhã giám: Kính xin các bậc danh hiền trong cả nước và thiện tín mười phương chứng giám cho. Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.385-388 Tôi là Phan Bá Ất , ở Đa Phúc, Sài Sơn, Quốc Oai, Thành phố Hà Nội (Chùa Thầy). | NHÀ SƯ NHƯ TÙNG VÀ BÀI VĂN PHỔ KHUYẾN XÂY DỰNG CHÙA CAO Ở SÀI SƠN LƯU ĐÌNH TĂNG Viện Nghiên cứu Hán Nôm Chùa Cao là một ngôi chùa có danh tiếng nằm trên núi Sài thuộc khu vực chùa Thày ở xã Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý, trong khu vực chùa còn có am thánh hóa, nơi thánh tổ Từ Đạo Hạnh thoát xác để có điều kiện quay lại trần thế ở ngôi Hoàng đế nhà Lý. Phả tích và các tư liệu thành văn có ở chùa ghi nhận, chùa luôn có sư tổ kế đăng nên cảnh chùa thực sự trang nghiêm. Đến đầu thế kỷ 20 này Hòa thượng Như Tùng là vị sư trụ trì ở đây. Pháp danh của Hòa thượng Thích Thanh Thi còn Như Tùng chỉ là tên hiệu, song dân địa phương vẫn quen gọi Hòa thượng là sư Như Tùng. Hòa thượng sinh và mất năm nào không rõ, chỉ biết năm 1906 khi sư tổ Minh Tâm viên tịch, thì Hòa thượng Như Tùng chính thức trở thành sư trụ trì ở chùa Cao, cho đến năm 1940 Hòa thượng còn đứng ra hưng công san khắc bộ sách Sài Sơn thánh tích thực lục ghi chép sự tích Thánh tổ Từ Đạo Hạnh. Các tư liệu đó cho thấy Hòa thượng đã trụ trì ở đây suốt nửa đầu thế kỷ 20. Trong năm mươi năm đó Hòa thượng đã mang hết tâm sức lo liệu công việc của chùa, nào là xây tòa tam bảo, nào là tu sửa đường núi lên động, nào xây nhà thiêu hương, nào sửa am Thánh hóa… đặc biệt là việc in kinh sách. Có hàng chục bộ kinh sách viết về chùa Thày hoặc có liên quan đến chùa Thày đã được in ở thời kỳ này như Sài Sơn Thánh tổ đại thừa chân kinh, Sài Sơn Thánh tích thực lục, Sài Sơn thi lục, Thánh tổ linh sám v.v… Kết quả của các việc làm đó đã khiến cho cảnh chùa ngày càng thu hút sự mến mộ của khách thập phương. Nhiều người đã ca tụng công đức ấy, chẳng hạn như Cử nhân Nguyễn Sư Hoàng khi được đọc tập Sài Sơn thi lục đã viết: “Đáng khen thay nhà sư Như Tùng đã có chí có học lại có tâm với bảo tồn vốn cổ, thực đáng là hào kiệt ít thấy trong hàng Sa môn vậy”. Thật vậy Hòa thượng Như Tùng là một người có tâm với đạo với đời, chính Hòa thượng đã tự bộc bạch lòng mình trong bài văn phổ khuyến xây dựng chùa: “Chùa Sài Sơn, là một cảnh danh thắng của nước Nam ta, ngàn năm về trước có đức thánh Từ tu luyện ở đó, tới nay dây hóa vẫn còn, đâu đâu cũng đã biết tiếng. Nói cảnh thiên nhiên là một cảnh đẹp trong nước, vậy thì tô điểm non sông trong tổ quốc cũng là chức trách của quốc dân ta. Nay tôi theo cảnh thiên nhiên thêm công tu bổ để muốn công đức chung cùng thiên hạ, há phải bán danh cầu phúc mượn tôn giáo mà lấy sự lợi riêng đâu?”. Nguyên văn bài Phổ khuyến viết bằng chữ Nôm giới thiệu khái quát về những công việc mà Hòa thượng dự định sẽ làm trong tương lai, lời lẽ thực sự khẩn thiết thấm vào lòng người. Đọc đi đọc lại nhiều lần tuy đôi chỗ còn hạn chế về mặt tư tưởng, song chúng tôi nhận thấy rằng đây có thể coi là tư liệu Hán Nôm đáng trân trọng, không chỉ để nghiên cứu về một danh thắng chùa Thày, mà còn có ích cho việc nghiên cứu Phật học đầu thế kỷ này. Do vậy xin được phiên âm, chú giải và giới thiệu toàn văn bài phổ khuyến đó. Sơn tăng Như Tùng có lời kính khải(1) như sau này. Chùa Sài Sơn tôi nay có hưng công sửa sang việc phúc quả tưởng cũng là công trình lớn lắm. San khắc một bộ kinh mục(2) là Sài Sơn thánh tổ đại thừa chân kinh; một bộ Linh sám; một tập thơ của các vị danh hiền đề vịnh Sài Sơn xưa nay, mục là Sài Sơn thi lục, và tân chế hương án, cửa võng, hoành biển, đối liên các hạng, trù tạo(3) một tòa nhà tổ cùng sửa sang nội tự các sở, sửa một con đường từ chân núi cho lên đến chùa, phí tổn nhiều lắm mà hiện nay chùa có không được là bao, mong sao được hoàn toàn việc phúc. Đã vậy có câu rằng: “Hợp mây nên mưa, tích da thành áo”. Lời đó là nhẽ thường, nhưng đương thời đại văn minh tiến hóa này, mà đem nói đến việc tôn giáo thần quyền, chẳng cũng quê lắm, cổ lắm mà khó nói lắm ư? Song thiết nghĩ tự khai thiên lập địa tới nay, văn minh như Âu Mỹ cũng vẫn có thần quyền để duy trì nhân tâm. Cường thịnh như Nhật Bản ở Á Đông cũng vẫn suy diễn Phật đạo để mở rộng đường bác ái. Nước Nam ta bốn nghìn năm nay bao giờ cũng vẫ có thần quyền, tôn giáo. Đã có tôn giáo, thần quyền thì phải trọng âm chất(4). Càng văn minh càng nên trọng thần quyền, có âm chất thì phải trọng tôn giáo, thế thì việc phật thần chung, kính thờ chung tức là nghĩa vụ chung vậy. Phương chi chùa Sài Sơn là một cảnh danh thắng của nước Nam ta. Nghìn năm về trước có đức thánh Từ tu luyện ở đó, tới nay dấu hóa vẫn còn, đâu đâu cũng đã biết tiếng. Nói cảnh thiên nhiên là một cảnh đẹp trong nước, vậy thì tô điểm non song trong tổ quốc cũng là chức trách của quốc dân ta. Nay tôi theo cảnh thiên nhiên thêm công tu bổ, muốn công đức chung cùng thiên hạ, há phải bán danh cầu phúc, mượn tôn giáo mà lấy sự lợi riêng đâu? Xin đem việc phúc quả để kính đạt mấy các vị danh hiền, các nhà thiện tín, đã đăng lâm(5), biết cảnh biết chùa, lại sẵn có hằng tâm hằng sản cùng phát tâm trợ cúng, thì may việc phúc quả cũng có thể viên thành được, nên dám có mấy lời kính tự. Còn như làm phúc được, báo ứng nhẽ thường thì tôi không phải nói. Nay kính khải. Hải nội danh hiền thập phương thiện tín nhã giám(6). Chú thích: 1. Khải: Trình bày, bẩm báo. 2. Mục: Đề mục, đề bài. Ở đây chỉ vào các bộ sách kinh được in. 3. Trù tạo: Quy hoạch xây dựng. 4. Âm chất: Chỉ việc làm thiện ở cõi nhân gian thì bản thân và con cháu mai sau sẽ được hưởng nhiều phúc quả. 5. Đăng lâm: Tức là lên rừng, xuống biển, ý chỉ các cuộc du thưởng thắng cảnh non nước của các tao nhân mặc khách thời xưa. 6. Hải nội danh hiền thập phương thiện tín nhã giám: Kính xin các bậc danh hiền trong cả nước và thiện tín mười phương chứng giám cho. Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.385-388 Tôi là Phan Bá Ất , ở Đa Phúc, Sài Sơn, Quốc Oai, Thành phố Hà Nội (Chùa Thầy). NHÀ SƯ NHƯ TÙNG VÀ BÀI VĂN PHỔ KHUYẾN XÂY DỰNG CHÙA CAO Ở SÀI SƠN LƯU ĐÌNH TĂNG Viện Nghiên cứu Hán Nôm Chùa Cao là một ngôi chùa có danh tiếng nằm trên núi Sài thuộc khu vực chùa Thày ở xã Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý, trong khu vực chùa còn có am thánh hóa, nơi thánh tổ Từ Đạo Hạnh thoát xác để có điều kiện quay lại trần thế ở ngôi Hoàng đế nhà Lý. Phả tích và các tư liệu thành văn có ở chùa ghi nhận, chùa luôn có sư tổ kế đăng nên cảnh chùa thực sự trang nghiêm. Đến đầu thế kỷ 20 này Hòa thượng Như Tùng là vị sư trụ trì ở đây. Pháp danh của Hòa thượng Thích Thanh Thi còn Như Tùng chỉ là tên hiệu, song dân địa phương vẫn quen gọi Hòa thượng là sư Như Tùng. Hòa thượng sinh và mất năm nào không rõ, chỉ biết năm 1906 khi sư tổ Minh Tâm viên tịch, thì Hòa thượng Như Tùng chính thức trở thành sư trụ trì ở chùa Cao, cho đến năm 1940 Hòa thượng còn đứng ra hưng công san khắc bộ sách Sài Sơn thánh tích thực lục ghi chép sự tích Thánh tổ Từ Đạo Hạnh. Các tư liệu đó cho thấy Hòa thượng đã trụ trì ở đây suốt nửa đầu thế kỷ 20. Trong năm mươi năm đó Hòa thượng đã mang hết tâm sức lo liệu công việc của chùa, nào là xây tòa tam bảo, nào là tu sửa đường núi lên động, nào xây nhà thiêu hương, nào sửa am Thánh hóa… đặc biệt là việc in kinh sách. Có hàng chục bộ kinh sách viết về chùa Thày hoặc có liên quan đến chùa Thày đã được in ở thời kỳ này như Sài Sơn Thánh tổ đại thừa chân kinh, Sài Sơn Thánh tích thực lục, Sài Sơn thi lục, Thánh tổ linh sám v.v… Kết quả của các việc làm đó đã khiến cho cảnh chùa ngày càng thu hút sự mến mộ của khách thập phương. Nhiều người đã ca tụng công đức ấy, chẳng hạn như Cử nhân Nguyễn Sư Hoàng khi được đọc tập Sài Sơn thi lục đã viết: “Đáng khen thay nhà sư Như Tùng đã có chí có học lại có tâm với bảo tồn vốn cổ, thực đáng là hào kiệt ít thấy trong hàng Sa môn vậy”. Thật vậy Hòa thượng Như Tùng là một người có tâm với đạo với đời, chính Hòa thượng đã tự bộc bạch lòng mình trong bài văn phổ khuyến xây dựng chùa: “Chùa Sài Sơn, là một cảnh danh thắng của nước Nam ta, ngàn năm về trước có đức thánh Từ tu luyện ở đó, tới nay dây hóa vẫn còn, đâu đâu cũng đã biết tiếng. Nói cảnh thiên nhiên là một cảnh đẹp trong nước, vậy thì tô điểm non sông trong tổ quốc cũng là chức trách của quốc dân ta. Nay tôi theo cảnh thiên nhiên thêm công tu bổ để muốn công đức chung cùng thiên hạ, há phải bán danh cầu phúc mượn tôn giáo mà lấy sự lợi riêng đâu?”. Nguyên văn bài Phổ khuyến viết bằng chữ Nôm giới thiệu khái quát về những công việc mà Hòa thượng dự định sẽ làm trong tương lai, lời lẽ thực sự khẩn thiết thấm vào lòng người. Đọc đi đọc lại nhiều lần tuy đôi chỗ còn hạn chế về mặt tư tưởng, song chúng tôi nhận thấy rằng đây có thể coi là tư liệu Hán Nôm đáng trân trọng, không chỉ để nghiên cứu về một danh thắng chùa Thày, mà còn có ích cho việc nghiên cứu Phật học đầu thế kỷ này. Do vậy xin được phiên âm, chú giải và giới thiệu toàn văn bài phổ khuyến đó. Sơn tăng Như Tùng có lời kính khải(1) như sau này. Chùa Sài Sơn tôi nay có hưng công sửa sang việc phúc quả tưởng cũng là công trình lớn lắm. San khắc một bộ kinh mục(2) là Sài Sơn thánh tổ đại thừa chân kinh; một bộ Linh sám; một tập thơ của các vị danh hiền đề vịnh Sài Sơn xưa nay, mục là Sài Sơn thi lục, và tân chế hương án, cửa võng, hoành biển, đối liên các hạng, trù tạo(3) một tòa nhà tổ cùng sửa sang nội tự các sở, sửa một con đường từ chân núi cho lên đến chùa, phí tổn nhiều lắm mà hiện nay chùa có không được là bao, mong sao được hoàn toàn việc phúc. Đã vậy có câu rằng: “Hợp mây nên mưa, tích da thành áo”. Lời đó là nhẽ thường, nhưng đương thời đại văn minh tiến hóa này, mà đem nói đến việc tôn giáo thần quyền, chẳng cũng quê lắm, cổ lắm mà khó nói lắm ư? Song thiết nghĩ tự khai thiên lập địa tới nay, văn minh như Âu Mỹ cũng vẫn có thần quyền để duy trì nhân tâm. Cường thịnh như Nhật Bản ở Á Đông cũng vẫn suy diễn Phật đạo để mở rộng đường bác ái. Nước Nam ta bốn nghìn năm nay bao giờ cũng vẫ có thần quyền, tôn giáo. Đã có tôn giáo, thần quyền thì phải trọng âm chất(4). Càng văn minh càng nên trọng thần quyền, có âm chất thì phải trọng tôn giáo, thế thì việc phật thần chung, kính thờ chung tức là nghĩa vụ chung vậy. Phương chi chùa Sài Sơn là một cảnh danh thắng của nước Nam ta. Nghìn năm về trước có đức thánh Từ tu luyện ở đó, tới nay dấu hóa vẫn còn, đâu đâu cũng đã biết tiếng. Nói cảnh thiên nhiên là một cảnh đẹp trong nước, vậy thì tô điểm non song trong tổ quốc cũng là chức trách của quốc dân ta. Nay tôi theo cảnh thiên nhiên thêm công tu bổ, muốn công đức chung cùng thiên hạ, há phải bán danh cầu phúc, mượn tôn giáo mà lấy sự lợi riêng đâu? Xin đem việc phúc quả để kính đạt mấy các vị danh hiền, các nhà thiện tín, đã đăng lâm(5), biết cảnh biết chùa, lại sẵn có hằng tâm hằng sản cùng phát tâm trợ cúng, thì may việc phúc quả cũng có thể viên thành được, nên dám có mấy lời kính tự. Còn như làm phúc được, báo ứng nhẽ thường thì tôi không phải nói. Nay kính khải. Hải nội danh hiền thập phương thiện tín nhã giám(6). Chú thích: 1. Khải: Trình bày, bẩm báo. 2. Mục: Đề mục, đề bài. Ở đây chỉ vào các bộ sách kinh được in. 3. Trù tạo: Quy hoạch xây dựng. 4. Âm chất: Chỉ việc làm thiện ở cõi nhân gian thì bản thân và con cháu mai sau sẽ được hưởng nhiều phúc quả. 5. Đăng lâm: Tức là lên rừng, xuống biển, ý chỉ các cuộc du thưởng thắng cảnh non nước của các tao nhân mặc khách thời xưa. 6. Hải nội danh hiền thập phương thiện tín nhã giám: Kính xin các bậc danh hiền trong cả nước và thiện tín mười phương chứng giám cho. Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.385-388 Tôi là Phan Bá Ất , ở Đa Phúc, Sài Sơn, Quốc Oai, Thành phố Hà Nội (Chùa Thầy). NCPH
Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/nhung-nha-su-tru-tri-chua-thay-voi-van-chuong-hoc-thuat-d15836.html)
Tin cùng nội dung
-
Đau khổ không phải là thứ để chúng ta cảm thấy bất bình mà nó là công cụ để chúng ta tu luyện, đạt đến giác ngộ và cuối cùng được viên mãn.
-
Người làm vườn hay người xây nhà thông minh sẽ tận hưởng những thời khắc thanh thản, bình yên giữa cái chưa-hoàn-hảo-nhưng-lại-là-hoàn-hảo, không nghĩ ngợi, không bị bó buộc bởi kế hoạch hay cảm thấy có lỗi.
-
Hai con sư tử đã định phủ đầu mãnh hổ nhằm thể hiện uy quyền của mình, đáng tiếc nó đã đụng nhầm đối tượng.
-
Lớp kế toán không phải là nơi có nhiều niềm vui và tìm được hạnh phúc. Đã từng có chút hạnh phúc, ở nơi khác, nhưng chút hạnh phúc đó chẳng may nhanh chóng thất lạc.
-
Xưa kia, có một người luôn tâm niệm: Nếu có thể làm hài lòng Trời Phật cuộc sống sẽ thuận lợi, may mắn đủ đường hay sao?. Anh ta tìm đến hỏi cao kiến 1 vị cao tăng. Nào ngờ, lại phải ra nghĩa địa làm 1 việc kỳ lạ
-
Vô cùng thất vọng về bản thân, chú tiểu đã hỏi sư phụ nên nói gì với gia đình, và đã rất bất ngờ trước câu trả lời mình nhận được.
-
Người xuất gia làm việc thiện vô tư, không toan tính. Vậy tại sao một thiền sư đức cao vọng trọng lại thẳng thừng từ chối một thanh niên muốn đi nhờ ô vì trời mưa?
-
Đoạn đối thoại giữa chàng trai và một vị sư sẽ giúp bạn ngộ ra những điều ý nghĩa trong cuộc sống này.
-
(MangYTe) – Liên quan đến vụ án mạng kinh hoàng xảy ra tại chùa Quảng Ân, huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận), trưa 27-3, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Thuận cho biết đã tìm được tang vật vụ án.
-
(MangYTe) - Bác sĩ Phạm Văn Phúc cho biết, sau khi trường hợp của Chang Thị Mào (dân tộc Mông), từ Mù Cang Chải về Hà Nội nhập viện mà chỉ có 500 nhìn đồn được báo MangYTe phản ánh có rất nhiều bạn đọc, các nhà hảo tâm vào đóng viện phí cho bệnh nhân, có nhà sư đóng viện phí cho Mào với số tiền khoảng 35 triệu đồng.
| |