Bướu nhân tuyến giáp là biểu hiện lâm sàng chung của nhiều bệnh lý tuyến giáp. Đó có thể là viêm tuyến giáp khu trú (focal thyroiditis), bướu nhân tuyến giáp đơn thuần (simple nodular goiter), bướu nhân độc tuyến giáp (toxic nodular goiter), nhân ung thư tuyến giáp (malignant thyroid nodule). Bướu nhân độc tuyến giáp hay nhân độc tự trị (autonomously functioning thyroid nodules) là bệnh lý hay gặp, chiếm 15 - 30% trong các bệnh lý gây cường giáp, chỉ sau Basedow. Ở vùng thiếu hụt iod, bướu nhân độc tuyến giáp gặp với tỷ lệ cao hơn, có thể là đơn nhân (single toxic nodular goiter), cũng có thể là đa nhân (multiple toxic nodular goiter). Bệnh gặp nhiều ở nữ giới, tuổi trên 40. Cường chức năng tuyến giáp thường xảy ra khi nhân độc tuyến giáp có kích thước trên 2,5cm. Bệnh cảnh lâm sàng là tình trạng người bệnh có bướu nhân tuyến giáp và các dấu hiệu nhiễm độc hormon tuyến giáp.
Cơ chế bệnh sinh chưa biết đầy đủ, một phần mô tuyến giáp tăng sinh, tăng hoạt động thành nhân cường năng. Hậu quả là sự kiểm soát từ tuyến yên bị ức chế, mô giáp ngoài nhân cường năng bị ức chế theo.
Các phương pháp chính để điều trị bướu nhân độc tuyến giáp là: Thu*c kháng giáp trạng tổng hợp, phẫu thuật,131I, trong đó điều trị bằng 131I có nhiều ưu điểm và là phương pháp điều trị được lựa chọn hiện nay.
131I uống hoặc tiêm tĩnh mạch, 131I vào máu sẽ tập trung cao vào nhân cường năng của tuyến giáp, tia E do 131I phát ra sẽ phát huy tác dụng tại chỗ,các tế bào ưu năng của nhân sẽ bị phá huỷ, giảm sinh và ch*t dần, các vi mạch nuôi nhân sẽ bị xơ hoá giảm tưới máu. Kết quả là nhân sẽ biến mất hoặc nhỏ lại, chức năng chung của tuyến giáp sẽ về bình thường.
Người bệnh được chẩn đoán xác định là bướu nhân tuyến giáp nhiễm độc (bướu nhân độc tuyến giáp), đã loại trừ ung thư. Trên xạ hình nếu phần tuyến giáp ngoài nhân không hoàn toàn bị ức chế bởi nhân cường năng, vẫn có hình ảnh tuyến trên xạ hình thì nên cho người bệnh dùng thêm T3 liều 25 – 75 µg/ngày x 5 - 7 ngày trước khi điều trị 131I, tránh nhược giáp về sau.
Nếu nhân kích thước lớn, cường giáp nặng thì phải được chuẩn bị tốt bằng nội khoa trước để tránh các biến chứng khi điều trị bằng 131I liều cao.
Người bệnh được giải thích về tình hình bệnh tật và các mặt lợi hại của việc dùng 131I điều trị bệnh.
Ngừng Thu*c kháng giáp ít nhất 1 tuần trước khi điều trị 131I. Ngừng uống T4 ít nhất 4 tuần, T3 phải ngừng ít nhất 2 tuần. Không dùng thức ăn có nhiều iod hoặc Thu*c chứa iod.
Điều trị các triệu chứng về tim mạch, thần kinh, tiêu hoá, nâng cao thể trạng trước khi nhận liều 131I.
Bướu nhân kháng xạ hơn bướu lan toả (Basedow). Do đó, liều sử dụng thường cao hơn trong điều trị bướu giáp nhu mô lan toả nhiễm độc.
Có thể tính theo công thức: 100 x 10mCi/T24 (T24: độ tập trung 131I tại tuyến giáp lúc 24 giờ), hoặc 200 µCi/g bướu giáp. Liều dưới 10 mCi tác dụng hạn chế.
Tốt: 60 - 100% các trường hợp, hết nhân, chức năng tuyến giáp trở về bình thường (bình giáp), người bệnh hết tình trạng nhiễm độc giáp.
Đánh giá kết quả điều trị bằng các chỉ tiêu : tình trạng nhiễm độc giáp, bướu giáp, nhân tuyến giáp. Nồng độ T3, FT3, T4, FT4 và TSH, xạ hình tuyến giáp với 131I, siêu âm... Sau 3 - 6 tháng nếu còn nhân cường giáp thì cần điều trị 131I tiếp những lần sau.
Viêm tuyến giáp, tuyến nước bọt - sưng nề, nóng, đỏ, đau - thường nhẹ có thể tự khỏi, nếu nặng có thể cho các Thu*c chống viêm, giảm đau (paracetamol 0,5g, uống 1 viên/lần x 2 - 3 lần/ngày), corticoid (medrol 16mg, uống 2 viên buổi sáng x 2 - 3 ngày, sau đó uống 1 viên x 2 - 3 ngày), an thần (diazepam 5mg, uống 1 viên vào buổi tối), chườm lạnh vùng bướu giáp bị sưng.
Suy tuyến giáp ít gặp hơn so với điều trị Basedow bằng 131I do Thu*c chỉ tập trung tác dụng tại nhân, ít ảnh hưởng tới tổ chức giáp lành xung quanh.