Tràn khí màng phổi là hội chứng có sự xuất hiện của khí trong khoang màng phổi. Không khí vào khoang màng phổi nhưng không ra được làm cho nhu mô phổi xẹp lại về phía rốn phổi. Đây là tình trạng bệnh lý cấp cứu, có thể gây suy hô hấp đột ngột và dẫn đến Tu vong.
Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát: Vỡ nang phổi bẩm sinh, nang phế quản. Bệnh nhân thường không có tiền sử và biểu hiện của bệnh lý hô hấp trước đó.
Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát: Thường do biến chứng của các bệnh lý hô hấp như: Lao phổi, hen phế quản, viêm phế quản phổi, bệnh tụ cầu phổi màng phổi, áp-xe phổi, dị vật đường thở.
Tràn khí màng phổi do chấn thương: Thủng, rách đường thở do chấn thương lồng ngực, nội soi phế quản, phẫu thuật lồng ngực. Vỡ phế nang do áp lực: hô hấp nhân tạo, bóp bóng, thở máy.
Điều trị tràn khí màng phổi tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân, mức độ và nguyên nhân tràn khí.
Tràn khí màng phổi áp lực: cần cấp cứu ngay bằng đặt kim dẫn lưu khí một chiều sau đó đặt đẫn lưu hút liên tục.
* Vị trí đặt dẫn lưu màng phổi ở khoang liên sườn II - III đường giữa đòn (nếu dùng trocart) hoặc khoang liên sườn IV đường nách giữa (nếu dùng ống dẫn lưu kiểu Sherwood). Ống dẫn lưu nối với hệ thồng dẫn lưu kín, một chiều, vô trùng, hút liên tục với áp lực trung bình - 5cmH2O đến - 10cmH2O.
* Ống dẫn lưu màng phổi lưu đến khi không còn khí thoát ra. Kẹp ống dẫn lưu 12h - 24h trước khi rút. Chụp Xquang phổi kiểm tra trước khi rút ống.
Tràn khí màng phổi tái phát sau khi đã gây dính màng phổi.