Tràn dịch màng phổi là bệnh thường gặp trong các bệnh lý của bộ máy hô hấp. Tràn dịch màng phổi là tình trạng tích tụ dịch trong màng phổi, rất hiếm khi tiên phát mà thường thứ phát sau một bệnh khác. Chẩn đoán xác định tràn dịch màng phổi thường không khó lắm, nhưng tìm nguyên nhân gây bệnh rất khó, khoảng 30% tràn dịch màng phổi không tìm được nguyên nhân.
Tùy thuộc vào nguyên nhân và diễn tiến bệnh mà dịch màng phổi có nhiều tính chất khác nhau về màu sắc: trong, vàng chanh, đục, mủ, đỏ máu, trắng đục...; về sinh hóa: dịch thấm, dịch tiết, máu...; về tế bào: bạch cầu đa nhân, bạch cầu lympho, hồng cầu, tế bào nội mô; về vi trùng và các tính chất khác.
Tràn dịch màng phổi chiếm tỷ lệ khá cao so với các bệnh đường hô hấp, điều trị nội khoa nhiều lúc không hiệu quả, để lại nhiều biến chứng và di chứng lâu dài, ảnh hưởng đến chức năng hô hấp. Ngày nay nhờ có nhiều loại kháng sinh tốt và mạnh nên hạn chế phần nào tỉ lệ Tu vong và giảm nhẹ biến chứng.
Nhiễm trùng: thường thứ phát sau các thương tổn phổi (viêm phổi, viêm màng phổi, áp xe phổi vỡ vào xoang màng phổi, ung thư phổi hoại tử hoặc bội nhiễm...) hoặc từ các cơ quan lân cận (gan, màng tim, trung thất).
Ký sinh trùng: thường gặp do amíp (do áp xe gan, áp xe dưới cơ hoành vỡ vào xoang màng phổi), sán lá gan.
Thường gặp là dịch thấm do các bệnh lý ở tim (suy tim), gan (xơ gan), thận (hội chứng thận hư, suy thận), suy dinh dưỡng ; hoặc u nang buồng trứng (hội chứng Demons Meigs), bệnh tự miễn, bệnh tạo keo, viêm tụy cấp. Tràn dịch màng phổi ở đây chỉ nhấn mạnh đến nguyên nhân do vi khuẩn sinh mủ, thường gặp là phế cầu, liên cầu, tụ cầu vàng, E.coli, Klebsilla pneumoniae, Actinomyces, trực khuẩn mủ xanh, nếu có mùi thối là do hoặc phối hợp với các loại yếm khí.
Các thương tổn có thể nguyên phát tại màng phổi nhưng thường là thứ phát sau các thương tổn phổi, màng tim, hoặc từ các cơ quan khác như gan, trung thất, áp xe dưới cơ hoành... hoặc từ đường máu đến (nhiễm trùng huyết) hoặc trên một cơ địa thương tổn phổi có sẵn (lao, ung thư...) rồi bội nhiễm hoặc tràn dịch sau tràn khí màng phổi.
Bình thường giữa hai lá màng phổi có một lớp dịch rất mỏng để hai lá màng phổi trượt lên nhau. Tràn dịch màng phổi xảy ra khi có tăng tính thấm mao mạch, giảm áp lực keo trong máu, thay đổi áp lực thủy tĩnh, giảm tuần hoàn bạch mạch, xuất huyết... trong đó có vai trò của viêm là quan trọng nhất, gây dày màng phổi và chèn ép nhu mô phổi, nhưng lượng dịch này có thể được thấm trở lại vào gian bào, máu sau khi được điều trị.
Người ta chia ra dịch thấm và dịch tiết dựa vào lượng protein, men, tế bào, bạch cầu... Sự phân chia này có giá trị trong chẩn đoán nguyên nhân và hướng điều trị.
Với sốt cao dao động, thể trạng gầy sút, biếng ăn, vẻ mặt hốc hác, lưỡi bẩn, nước tiểu ít và sẫm màu.
Đau xóc ngực dữ dội, tăng lên khi ho hay thở sâu hoặc thay đổi tư thế. Nếu tràn dịch từ từ thì ít đau hơn.
Ho: thường là ho khan, nếu kèm thương tổn phổi thì đôi khi có đờm trong hoặc đờm có mủ, ho khi thay đổi tư thế.
Khó thở: tùy theo số lượng dịch, tốc độ tràn dịch, có khó thở nhanh. Ngoài tràn dịch màng phổi gây khó thở còn có thể phối hợp do sốt cao và đau.
Da vùng thương tổn có thể sưng đỏ, phù nề và có thể có tuần hoàn bàng hệ. Sờ thấy rung thanh giảm, ấn kẽ liên sườn rất đau, gõ đục và âm phế bào giảm hay mất, nếu dịch ít có thể nghe được tiếng cọ màng phổi.
Nếu tràn dịch quá nhiều, nhất là tràn dịch bên trái đẩy tim qua phải có thể gây suy hô hấp cấp, biểu hiện: khó thở nhiều, vã mồ hôi, tím môi và đầu chi, nhịp tim nhanh, huyết áp giảm.
Thường gặp tràn dịch màng phổi ở cạnh vùng phổi bị thương tổn, bệnh nhân có hội chứng nhiễm trùng cấp, nhưng tràn dịch thì khó xác định bằng lâm sàng, mà chỉ dựa vào X quang, siêu âm và chọc dò.
Chụp X quang phổi ở tư thế thẳng và nghiêng để tìm hình ảnh tràn dịch và xác định thể tràn dịch. X quang thường cho thấy đường cong Damoiseau, nếu có kèm tràn khí thì mức dịch nằm ngang, nếu dịch ít thì chỉ có tù góc sườn hoành.
Chọc dò màng phổi: để xác định nguyên nhân loại tràn dịch (dựa vào màu sắc) và làm các xét nghiệm sinh hóa, tế bào, nuôi cấy tìm vi khuẩn.
Chẩn đoán tràn dịch màng phổi thường không khó đối với thể tự do, dựa vào lâm sàng, X quang và quyết định chẩn đoán là chọc dò có dịch. Với thể khu trú, X quang và siêu âm là quan trọng vì lâm sàng khó xác định.
Dựa vào màu sắc, sinh hóa, tế bào học và mùi hôi của dịch màng phổi và quan trọng nhất là cấy dịch màng phổi và làm kháng sinh đồ.
Xẹp phổi: khoảng gian sườn hẹp, X quang phổi có mờ hình tam giác, đáy quay ra ngoài, chọc dò không có dịch.
Tràn dịch màng phổi do ung thư tiến triển rất nhanh, nếu do ung thư màng phổi tiên phát thì tiến triển chậm hơn.
Chọc tháo dịch màng phổi nếu tràn dịch nhiều dù là bất cứ nguyên nhân gì (mỗi lần chọc tháo không nên lấy quá 1000 ml).
Tràn dịch mủ: chọc hút nhiều lần kết hợp với bơm rửa màng phổi bằng dung dịch nước muối 0,9% hoặc có thể đặt ống dẫn lưu nhưng phải đảm bảo vô khuẩn.
Ở các cơ sở có điều kiện và bệnh nhân có chỉ định nên áp dụng hút kín để hút liên tục giúp cho sự giãn nở phổi được hồi phục nhanh.
Tùy theo từng nguyên nhân có thể dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ hoặc penicillin liều cao kết hợp với gentamicin để điều trị nguyên nhân do nhiễm khuẩn.
Trường hợp viêm mủ màng phổi đã khu trú sau 1 tháng điều trị nội khoa tích cực không giải quyết được thì phải phẫu thuật bóc ổ màng phổi.
Các trường hợp tràn dịch dưỡng trấp màng phổi do vỡ hoặc tắc ống ngực thì phải phẫu thuật phục hồi lại ống ngực.
Các biểu hiện khác hay những vấn đề khó khăn khác mà bệnh nhân cảm nhận thấy: phù, đái ít, rối loạn tim mạch..., nhận thức của bệnh nhân về bệnh tật.
Giáo dục bệnh nhân về nguyên nhân, các yếu tố thuận lợi gây bệnh, tiến triển, biến chứng có thể có của bệnh.
Cần nâng cao thể trạng vì khi bị bệnh thể trạng quá suy sụp do vậy chế độ ăn phải giàu protein, giàu vitamin, ăn nhiều hoa quả tươi, đảm bảo đủ năng lượng.
Đặt bệnh nhân ở tư thế thoải mái nhất, thông thường đặt bệnh nhân ở tư thế đầu cao 20-40 độ, nằm nghiêng về phía tràn dịch.
Phải hết sức nhẹ nhàng khi di chuyển hoặc thay đổi tư thế cho người bệnh, đặc biệt đối với bệnh nhân có ống dẫn lưu.
Tạo điều kiện thuận lợi để bệnh nhân không phải gắng sức: để các đồ dùng ở vị trí trong tầm tay của bệnh nhân. Giúp bệnh nhân những công việc mà họ không tự làm được hoặc họ phải gắng sức.
Cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh tật, quá trình diễn biến, giải thích cho bệnh nhân hiểu về những thủ thuật cần can thiệp để điều trị.
Khuyến khích bệnh nhân đặt những câu hỏi và bày tỏ sự sợ hãi, lo lắng của họ về bệnh tật. Giải thích cho bệnh nhân hiểu hoặc cùng với bác sĩ hay nhân viên y tế khác giải thích cho bệnh nhân.
Thực hiện Thu*c giảm đau hoặc phòng ngừa đau theo y lệnh (không dùng Thu*c ngủ vì Thu*c ngủ làm ức chế hô hấp).
Giúp bệnh nhân làm sạch đường hô hấp để chống xẹp phổi, viêm phổi (khuyến khích bệnh nhân tập thở sâu, ho mạnh).
Chuẩn bị dụng cụ phụ giúp bác sĩ chọc tháo dịch màng phổi (nếu có chỉ định) giúp bệnh nhân dễ thở hoặc để lấy dịch làm xét nghiệm...
Theo dõi dấu hiệu nhiễm khuẩn tại chỗ (vết chọc dò, chân ống dẫn lưu nếu bệnh nhân có đặt ống dẫn lưu).
Thường xuyên đánh giá hiệu quả điều trị và chăm sóc. Nếu có những dấu hiệu bất thường phải báo ngay để bác sĩ biết.
Giải thích cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân hiểu về tình trạng bệnh lý, những kết quả mong chờ và phương pháp điều trị tiếp.
Giải thích cho bệnh nhân hiểu về tầm quan trọng của luyện tập thở sâu, tập làm giãn nở phổi. Cùng với bệnh nhân xây dựng một chương trình về luyện tập hô hấp để phục hồi và tăng cường chức năng hô hấp, phòng tránh biến chứng (dính màng phổi, xẹp phổi...).
Hướng dẫn bệnh nhân tập thở sâu, tập ho. Hướng dẫn, giải thích, động viên và khuyến khích họ vì bệnh nhân đau không dám thở sẽ làm giảm sự trao đổi khí.
Hướng dẫn và khuyến khích bệnh nhân thực hiện chương trình hồi phục nâng cao sức khỏe bằng chế độ ăn uống tốt, nghỉ ngơi và vận động hợp lý.
Hướng dẫn bệnh nhân những biện pháp phòng ngừa để không bị mắc lại hoặc không bị mắc phải bệnh gây nên tràn dịch màng phổi hoặc những bệnh có thể đưa đến tràn dịch màng phổi.
Nếu bệnh nhân cần tiếp tục điều trị tiếp sau khi ra viện thì phải hướng dẫn bệnh nhân về cách sử dụng Thu*c.
Hãy dành thời gian nhất định để bệnh nhân và gia đình bệnh nhân đặt những câu hỏi, bày tỏ những mối quan tâm của họ. Sau đó phải giải thích và cung cấp những thông tin cần thiết đáp ứng nhu cầu của họ.
Tình trạng nhiễm khuẩn thuyên giảm dần rồi hết sốt, không có dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm khuẩn toàn thân hay tại chỗ.