Tâm linh hôm nay

Trích đoạn và giảng giải Kinh Lăng Nghiêm

Tông Thông rằng: Bát Thức Quy Củ Tụng nói: “Kẻ ngu khó phân biệt giữa thức với căn, bởi vì căn với thức khó phân biệt đã lâu. Nếu nói căn chẳng phải thức thì căn là căn, thức là thức, vậy thì thức phải thấy căn, nhưng thật thì chẳng thấy.

Nếu nói căn tức là thức thì kẻ ch*t vẫn còn nhãn căn tại sao không thấy? Nên biết ngũ căn chỉ là vật chất có tác dụng chiếu soi cảnh trần mà thôi. Thức thì phải phân biệt rõ ràng. Hiện tượng của hai thứ huân tập chẳng đồng. Ngũ căn thuộc về sắc pháp, tức là thân tướng phần của thức thứ tám, có hai tác dụng chấp và thọ, là tính vô ký (phi thiện phi ác). Ngũ thức là tâm pháp tức là kiến phần của thức thứ tám, đầy đủ ba tính (thiện, ác, vô ký), có khả năng giúp cho ý thức phân biệt rõ ràng gọi là tính cảnh,thuộc hiện lượng. Nên Tụng nói: “Tính cảnh hiện lượng thông tam tính”. Đến thức thứ sáu mới có phân biệt, thuộc tỷ lượng, phi lượng (xem lược giải).

Đây là sự phân biệt giữa căn với thức vậy.

Lược giải:

Bát Thức Qui Củ Tụng nói: “Tính cảnh hiện lượng thông tam tính.” Tính cảnh hiện lượng: Y theo tục đế nói: Sự nhận biết đối với cảnh vật của tiền ngũ thức thuộc tính cảnh hiện lượng. Độ lượng của mỗi thức đều có tính bất khả biến chân thật và cố định. Như nhĩ thức nghe âm thanh chỉ biết là âm thanh; như dùng thước đo vải, chỉ biết độ dài là bao nhiêu thước tấc. Độ dài này cố định là tính bất khả biến, chẳng thể tăng giảm. Năng lực của mỗi thức chỉ có thể giữ đúng bổn vị của mình mà thôi.

Tam tính: Thiện, Ác, Vô ký.

1.Tính thiện:

Là làm những việc có lợi ích cho bản thân hoặc người khác nơi hiện tại và vị lai, tin tưởng tâm thiện là do chủng tử thiện căn sở tạo, tất cả việc thiện cũng gọi là thiện nghiệp.

2. Tính ác:

Do các tâm tham dục sinh khởi, tạo tất cả ác nghiệp, vi phạm tổn hại đến mình hoặc người khác nơi đời hiện tại và vị lai, thuộc về tính ác, cũng gọi là ác nghiệp.

3. Tính vô ký:

Là pháp phi thiện phi ác, chẳng có chút niệm nào dính mắc sự lợi ích hay tổn hại, chẳng thể dùng ý thức để phân biệt. Trong duy thức có hai thứ vô ký:

A. Vô ký có che lấp:

Tự thể nó có tính chấp trước rất yếu để che lấp Thánh đạo, như thức thứ bảy luôn luôn chấp thức thứ tám là ta. Dù chẳng có sức để trực tiếp lợi ích hoặc tổn hại mình và người, nhưng có cái tự thể chấp trước. Sự vật nào đồng như tính này đều thuộc về vô ký có che lấp.

B. Vô ký chẳng che lấp:

Tự thể nó chẳng có tính chấp trước, nhưng tự tính rất yếu chẳng có chút sức nào để lợi ích hoặc tổn hại mình và người, như thức thứ tám. Phàm có tính đồng với loại này đều thuộc về vô ký chẳng che lấp.

Hai tính kể trên gọi chung là tính vô ký.

Về Tam tính gồm thiện, ác, vô ký (phi thiện phi ác). Tiền ngũ thức dù thông tam tính mà chẳng thể phân biệt tam tính. Thức thứ sáu thì có tính khả biến thuộc tỉ lượng và phi lượng. Hiện lượng như trước mắt thấy mưa; tỉ lượng như sáng thức dậy thấy sân trước sân sau đều thấm ướt thì suy biết đêm qua có mưa; phi lượng như thấy mặt đất bị tưới nước ướt, tưởng là đêm qua có mưa, sự thật thì chẳng có mưa.

Tiền ngũ thức chẳng thể hợp tác với nhau. Mỗi thức chỉ có thể kết hợp với cảnh trần riêng biệt của mỗi thức. Còn thức thứ sáu thì có thể hợp tác với bất cứ thức nào trong tiền ngũ thức. Mà sự nhận thức của nó thuộc tính khả biến.

Ngũ căn chỉ có thể nhận thức về cảm giác. Còn thức thứ sáu thì có tác dụng về tư duy và liễu ngộ. Cũng như nhãn căn là có năng lực về thị giác, nhưng chỉ có thể chiếu soi cảnh trần mà chẳng thể phân biệt. Còn nhãn thức qua thị giác thì có tác dụng nhận thức phân biệt (thuộc tính cố định). Ý căn chỉ có năng lực tư duy, còn ý thức thì qua sự tư duy, rồi sinh tác dụng nhận thức phân biệt (thuộc tính khả biến). Nói tóm lại, lục căn có thể giúp cho lục thức sinh khởi sự phân biệt cao độ vậy.

Kinh Pháp Bảo Đàn phân biệt lục căn với lục thức có nói: “Sắc thân (thân thể) của người thế gian là thành. Lục căn là cửa. Ngoài có năm cửa (tức ngũ căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân). Trong có cửa ý (tức ý căn). Khi 6 thức ra 6 cửa (tức lục căn), nếu ở nơi lục trần chẳng tạp, chẳng nhiễm thì tới lui tự do, ứng dụng chẳng ngại, tức là Bát Nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là vô niệm hạnh.

Bát Thức Qui Củ Tụng có câu: “Khứ hậu lai tiên tác chủ công.”

Thức thứ tám chứa các chủng tử của thiện ác nghiệp. Khi đầu thai thì đến trước nhất (lai tiên), khi ch*t là cái rời khỏi nhục thân sau cùng (khứ hậu). Do tính chấp ngã của thức thứ bảy kết hợp với S*nh l* của cơ thể mà làm chủ nhân nơi thân này. Bắt đầu từ tinh cha trứng mẹ kết hợp thành thai nhi. Nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, đồng thời cùng khắp các tế bào và lục phủ ngũ tạng của toàn thân. Do bộ não làm thủ tướng. Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thức với lục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng mà, lục căn thuộc về sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc về tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì chẳng thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tính thì được chuyển bát thức thành tứ trí mà ra khỏi luân hồi. Chấm dứt sự sinh tử, dứt hẳn sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc.

Về chuyển thức thành trí trong kinh Pháp Bảo Đàn có 8 câu kệ:

Đại viên cảnh trí tính thanh tịnh,

Bình đẳng tính trí tâm chẳng bệnh,

Diệu quan sát trí chẳng tác ý.

(Sự thấy của diệu quan sát trí chẳng cần tác ý)

Thành sở tác trí đồng viên cảnh.

Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển,

Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tính.

Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc,

Ở chỗ náo động cũng đại định.

Lược giải:

1. “Đại viên cảnh trí tính thanh tịnh”

Thức thứ tám chuyển thành trí như gương tròn chiếu soi, phổ chiếu vạn pháp là trí vốn thanh tịnh của bản tính.

2. “Bình đẳng tính trí tâm chẳng bệnh”

Thức thứ bảy chấp thức thứ tám là ta (thức thứ tám là bản thể của tất cả pháp) thành bệnh ô nhiễm, nay chuyển thành “Bình đẳng tính trí” ảnh hưởng thức thứ sáu chẳng khởi phân biệt tưởng thì tâm chẳng bệnh.

3. “Diệu quan sát trí chẳng tác ý”

Khi thức thứ sáu chuyển thành “Diệu quan sát trí” rồi dù thấy mà chẳng có tác ý.

4. “Thành sở tác trí đồng viên cảnh”

Tiền ngũ thức duyên theo sự lãnh đạo của thức thứ sáu mà khởi vọng tưởng phân biệt khi chuyển thành “Thành sở tác trí” rồi, tức đồng “Đại viên cảnh trí”, dù dùng mà chẳng tác ý phân biệt.

5. “Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển”

Lục và thất là trong nhân chuyển (thức thứ sáu là nhân tiệm tu, thuộc giáo môn, thức thứ bảy là nhân đốn ngộ, thuộc thiền môn), ngũ và bát là trên quả chuyển vì hễ vọng chấp của thức thứ bảy chuyển thì ngũ và bát cũng chuyển theo.

6. “Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tính”

Tám thứ thức kể trên chuyển thành Tứ trí chỉ là tên gọi chẳng có tính thực, nghĩa là chỉ chuyển cái tên mà chẳng phải chuyển cái thể vậy.

7. “Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc”

Nếu ở nơi chuyển mà chẳng chấp trước (chẳng chấp thật).

8. “Ở chỗ náo động cũng Đại định”

Bất cứ ở chỗ hoàn cảnh náo động cách mấy cũng đều là Đại định (chẳng có nhập định xuất định, vĩnh viễn ở trong định).

Chư Tổ đã triệt ngộ mỗi mỗi đều tự có cái cơ sảo phương tiện để khế hợp với đương cơ. Hoặc đánh hoặc hét hoặc nói hoặc nín…. Các cơ sảo ấy giống như sự bày đặt vô lý, nhưng lại có tác dụng đột nhiên cắt đứt nguồn suối ý thức của hiện nghiệp người đó. Mục đích là để khiến học giả ngay đó khai ngộ, chẳng phải muốn học giả hiểu rõ đạo lý. Nếu học giả tự làm tài khôn, dùng ý thức cầu tri giải đạo lý tức tự bế tắc cửa ngộ của mình. Như thế thì vĩnh viễn chẳng ngộ được. Xin các bạn đồng tham cẩn thận!

Lời Kinh:

Cho nên A Nan, nay ngươi phải biết lúc thấy sáng, Kiến tinh (Tính thấy) chẳng phải là sáng; lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải là tối; lúc thấy thông, kiến tinh chẳng phải là thông; lúc thấy nghẽn, kiến tinh chẳng phải là nghẽn. Bốn nghĩa trên chứng tỏ kiến tinh chẳng theo cảnh trần sinh diệt. Ngươi còn nên biết “Kiến kiến chi thời” (lúc cái bản kiến tự hiện), “Kiến phi thị kiến” (kiến chẳng phải là kiến), “Kiến do ly kiến” (kiến còn phải lìa kiến), “Kiến bất năng cập” (vì kiến chẳng thể thấy được kiến), tại sao còn nói tướng nhân duyên, tự nhiên, và hòa hợp?

Tông Thông: Đây là Thế Tôn hiển bày đệ nhất nghĩa đế, gọi là Diệu Bồ Đề Đạo vậy. Kiến và Kiến duyên gồm đủ năm nghĩa: sáng, tối, thông, nghẽn là bốn thứ Kiến duyên (sở kiến), còn Kiến tinh là một thứ “Kiến” vọng (Năng kiến). Thế Tôn ở đây phân biệt Kiến (Kiến tinh) và Kiến duyên (là tướng sáng tối thông nghẽn). Đem bốn nghĩa Sở kiến suy luận thì chứng tỏ Kiến tinh lìa trần mà có (Trần có sinh diệt, Kiến tinh không có sinh diệt). Cũng nhờ suy luận này mà phân biệt Chơn kiến. Chơn kiến thường chiếu rõ Kiến tinh, mà Kiến tinh chẳng thể chiếu rõ Chơn kiến. Chơn kiến là đệ nhất nguyệt (Chơn nguyệt) nên cho Kiến tinh là vọng (như đệ nhị nguyệt).

Than ơi, Kiến do ly kiến, dù nói là Kiến nhưng còn phải lìa Kiến, bởi vì Kiến tinh chẳng thể thấy được (kiến bất năng cập). Do đó, nơi nào có bóng dáng để mô tả mà cho là nhân duyên là tự nhiên là hòa hợp, ấy chẳng phải vọng sao?

Công án 1

Bách Trượng hỏi tăng: Thấy chăng?

Tăng đáp: thấy. Trượng hỏi: thấy rồi thế nào?

Đáp: thấy chẳng hai.

Bá Trượng hỏi: đã nói thấy chẳng hai, tức là chẳng dùng “Kiến” để thấy cái “Kiến”, nếu dùng “Kiến” để “Kiến” nữa, vậy là cái Kiến trước đúng hay là cái Kiến sau đúng? Như kinh nói: “Khi Kiến kiến (là hiện cái Bản kiến tức là Kiến tính), Kiến chẳng phải là Kiến, Kiến còn phải lìa Kiến, vì Kiến tinh chẳng thể đến được”. Cho nên chẳng hành “Kiến pháp”, chẳng hành “Văn pháp” (pháp nghe), chẳng hành “Giác pháp”, chư Phật liền thọ ký cho.

Kinh Bảo Tích nói: “Pháp thân chẳng thể dùng kiến văn giác tri để cầu:

Chẳng phải sở thấy của nhục nhãn vì vô sắc;

Chẳng phải sở thấy của thiên nhãn vì vô vọng;

Chẳng phải sở thấy của huệ nhãn vì lìa tướng;

Chẳng phải sở thấy của pháp nhãn vì lìa “chư hành” (vô thường);

Chẳng phải sở thấy của Phật nhãn vì lìa “chư thức”; nếu chẳng lập những tri kiến kể trên, gọi là tri kiến Phật (tức là diệu giác)”.

Công Án 2

Xưa kia Đại Lãng tham kiến Mã Tổ. Tổ hỏi: Ngươi đến cầu gì?

Đáp: Cầu tri kiến Phật.

Tổ nói: Phật chẳng tri kiến, tri kiến là ma. Ngươi từ đâu đến?

Đáp: Từ núi Nam Nhạc đến.

Tổ nói: Ngươi từ Nam Nhạc đến, chưa rõ tâm yếu của Tào Khê, ngươi mau về đó, chẳng nên đi nơi khác.

Đại Lãng về đến Nam Nhạc Thạch Đầu, liền hỏi: Thế nào là Phật?

Thạch Đầu đáp: Ngươi chẳng có Phật tính.

Đại Lãng hỏi: Sâu bọ hàm linh, lại như thế nào?

Thạch Đầu đáp: Sâu bọ hàm linh, thì có Phật tính.

Hỏi: Sao Huệ Lãng lại không có?

Đầu đáp: Vì ngươi không chịu thừa nhận.

Đại Lãng nghe ngay đó khai ngộ. Sau khi Kiến tính ở chùa, hễ có người học đạo đến, Đại Lãng đều bảo: “Đi đi! Ngươi chẳng có Phật tính.” Ngài tiếp chúng đều đại khái như thế.

Kinh nói: Vì A Nan lầm nhận kẻ đuổi theo vật là tâm, nên Phật quở: Ấy chẳng phải tâm ngươi. A Nan nói: Tôi làm tất cả việc đều nhờ tâm này, nếu Phật nói ấy chẳng phải tâm, thì tôi là người không có tâm (chẳng phải tâm là chẳng phải bản tâm).

Vậy theo công án Đại Lãng kể trên thì được biết đâu phải lìa giác tri mà không còn cái gì ư? (có năng lượng khắp không gian thời gian).

Chân tâm xa lìa tất cả phân biệt tức đại viên cảnh, xa lìa chư trần, như: Hữu, vô, động, tịnh, v.v… Tâm này vốn tự vô nhiễm, nên gọi là Thanh tịnh; nhiễm mà chẳng nhiễm nên gọi là Diệu tịnh. Tất cả nhân quả thế giới vi trần v.v… đều từ chân tâm mà kiến lập, đó cũng là bản tính vọng tâm của cửu pháp giới vậy. (cửu pháp giới là: bồ tát, duyên giác, thanh văn, trời, người, tu la, súc sinh, quỉ, địa ngục).

Tông Thông rằng: Thân ngươi tức là tướng phần, tâm ngươi tức là kiến phần.

Tướng phần gồm có pháp sở duyên của căn trần như sơn hà đại địa, sáng tối sắc không v.v… Kiến phần gồm tám thứ thức, tức lục thức Mặc Na và A Lại Da. Cả hai phần đều là sự dụng của chân tâm. Tâm này Bản (vốn) Diệu, chẳng nhờ tu tập. Tại sao nói Bản Diệu vậy? Vì nói về Thể thì là Viên diệu Minh tâm. Từ Diệu khởi Minh, nên gọi là Viên; nói về cái Dụng, thì là Bửu minh Diệu tính, tức Minh mà Diệu, nên gọi là Bửu. Tức Diệu mà Minh, chẳng trụ nơi Minh, tức Minh mà Diệu, chẳng trụ nơi Diệu, nên chẳng có chút nhiễm ô.

Nếu chuyển Thức thành Trí, ấy tức là Đại viên cảnh trí của Bản Diệu vậy.

Cho nên tất cả kiến phần tướng phần đều là bóng (sở hiện) trong gương tròn mà thôi (tức Đại viên cảnh trí).

Tông Thông rằng: Kiến tinh với duyên trần (đuổi theo cảnh trần), là có năng sở khác biệt, Diệu tâm với Kiến tinh thì có Thể với Dụng khác biệt. Nên Diệu tâm như Chân nguyệt (đệ nhất nguyệt), Kiến tinh như đệ nhị nguyệt, duyên trần phân biệt như bóng trăng trong nước vậy.

Nếu cho niệm là Tri thì Tâm chẳng cùng khắp. Bồ Tát Mã Minh nói: “Nếu tâm có động (khởi tâm động niệm), thì cái Tri chẳng cùng khắp.” Tướng động gọi là “niệm ngại” (là bị niệm chướng ngại), lìa những “niệm ngại” cái tri ấy mới cùng khắp.

Công án 3

Báo Từ Văn Thùy đã từng nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, tham kiến Pháp Nhãn thiền sư, trình sở học của mình cho là phù hợp ý chỉ trong kinh.

Pháp Nhãn hỏi: Lăng Nghiêm há chẳng phải có nghĩa bát hoàn ư?

Văn Thùy đáp: Phải.

Nhãn hỏi: Minh hoàn cái gì?

Đáp: Minh hoàn nhật luân (mặt trời).

Nhãn hỏi: Nhật hoàn cái gì?

Văn Thùy ngơ ngác chẳng thể trả lời. Từ đó khâm phục mà thỉnh pháp. Vậy có thể biết “chủ trong chủ” chẳng phải dùng thí dụ giải thích mà có thể đến được.

Tông Thông rằng: Ban Sơ A Nan hỏi: “Diệu tâm tại sao chẳng thể hoàn?” Phật vì Chân tâm chẳng thể diễn tả, nên mượn Kiến tinh để phương tiện khai thị.

Kiến tinh gần với Chân tâm, như đệ nhị nguyệt. Nhưng Kiến tinh này cũng vọng, cũng cần phải hoàn. Chỉ có Chân nguyệt dụ cho hân tính, mới thật là bất hoàn vậy.

Công án 4

Vân Cư Trí thiền sư nói: Tính thanh tịnh vốn là trạm nhiên chẳng có lay động, chẳng thuộc hữu vô, chẳng thể lấy bỏ, thể tự như như. Thấy rõ như thế mới gọi là Kiến tính. Tính tức Phật, Phật tức Tính, nên gọi là Kiến tính thành Phật.

Hỏi: Tính đã thanh tịnh chẳng thuộc hữu vô, tại sao có kiến?

Đáp: Kiến vô sở kiến.

Hỏi: Đã vô sở kiến sao lại còn có kiến?

Đáp: Kiến ấy cũng vô.

Hỏi: Khi kiến như vậy ấy là ai kiến?

Đáp: Chẳng có kẻ năng kiến.

Hỏi: Cứu cánh đạo lý ấy như thế nào?

Đáp: Vọng cho là có thì có năng sở, nên gọi là mê. Tùy kiến sinh tri giải thì đọa sinh tử. Người minh kiến thì chẳng phải vậy, suốt ngày Kiến mà chưa từng Kiến. Cầu chỗ danh hiệu thể tướng đều chẳng thể được, năng sở cùng tuyệt, gọi là kiến tính.

Hỏi: Tính này cùng khắp tất cả nơi chăng?

Đáp: Không nơi nào chẳng cùng khắp.

Hỏi: Phàm phu có chăng?

Đáp: Đã nói không nơi nào chẳng cùng khắp, đâu thể phàm phu mà chẳng có ư?

Hỏi: Tại sao chư Phật Bồ Tát chẳng bị nhốt trong sinh tử, chỉ có phàm phu bị chịu khổ này, vậy đâu được cùng khắp?

Đáp: Phàm phu ở nơi tính thanh tịnh cho là có năng sở thì đọa vào sinh tử, chư Phật Bồ Tát khéo biết trong tính thanh tịnh chẳng thuộc hữu vô, tức chẳng lập năng sở.

Hỏi: Nếu nói như vậy, tức là có người năng liễu và người bất liễu (tri).

Đáp: Liễu còn chẳng thể đắc, huống là có người bất liễu ư?

Hỏi: Chí lý như thế nào?

Đáp: Ta nói lời chủ yếu, ngươi nên biết trong tính thanh tịnh chẳng có thánh phàm, cũng chẳng có người liễu hay bất liễu. Thánh với phàm cả hai đều là danh, nếu tùy danh sinh tri giải tức đọa nơi sinh tử. Nếu biết giả danh chẳng thật, tức chẳng có kẻ để gắn cái danh.

Lại nói: Đây là chỗ cùng tột, nếu nói ta liễu, ngươi bất liễu tức là bịnh nặng. Thấy có thánh phàm dơ sạch, cũng là bịnh nặng. Cho là chẳng có thánh phàm, lại thuộc xóa bỏ nhân quả. Thấy có tính thanh tịnh để trụ cũng là bịnh nặng. Cho là không có tính thanh tịnh để trụ cũng là bịnh nặng. Nhưng trong tính thanh tịnh vốn chẳng mất cái phương tiện ứng dụng và hưng Từ vận Bi (khởi lên và vận dụng lòng Từ bi). Như thế tức là ở nơi hưng khởi vận dụng mà cái tính hoàn toàn thanh tịnh, ấy gọi là kiến tính thành Phật vậy.

Lời nói kể trên của Vân Cư Trí, đối với giải thích “kiến do ly kiến” rất là rõ ràng, nên cùng ghi ở đây.

“Sở ư văn trung

Nhập lưu vong sở

Sở nhập ký tịch

Động tịnh nhị tướng

Liễu nhiên bất sinh

Như thị tiệm tăng

Văn sở văn tận”.

Đoạn này như trong kinh đã nói : “Giải thoát bước đầu tiên của căn này (nhĩ căn) được “Nhơn không” (phá được nhân Ngã chấp).

“Tận văn bất trụ. Giác sở giác không”.

Tức là trong kinh đã nói : “Tính không” tròn đầy, sáng tỏ ; được “Pháp” giải thoát (phá được Ngã chấp).

“Không giác cực viên. Không sở không diệt”.

Tức là trong kinh đã nói : “Giải thoát pháp chấp xong rồi thì cái “Không” cũng chẳng sinh” (phá được KHÔNG chấp).

“Sinh diệt ký diệt. Tịch diệt hiện tiền”.

Tức là trong kinh đã nói : Do “Tam ma địa” (Chính định) được “Vô sinh nhẫn” (nhẫn là “nhẫn khả” tức chứng ngộ).

Thiền sư Thích Duy Lực

Thích Duy Lực

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/trich-doan-va-giang-giai-kinh-lang-nghiem-d19820.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY