Toát yếu cuả tác giả:
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáo là tuân theo tinh thần bất bạo động. Mục đích của tôi trong bài viết sau đây là trình bày những ảnh hưởng của lời nguyện ước này trong mối quan hệ với việc đối xử với phạm nhân. Chấp nhận trừng phạt có liên hệ đến chủ tâm bắt phạm nhân phải chịu thiệt hại, tôi lập luận rằng cách áp dụng trừng phạt là không phù hợp với nguyên tắc bất bạo động.
Giáo lý cơ bản của Đức Phật là chinh phục ác tâm bằng thiện tâm, và tinh thần hoà giải phù hợp với giáo lý này hơn là biện pháp trừng phạt. Tôi lập luận là tuân thủ tinh thần bất bạo động đòi hỏi không những chúng ta từ bỏ chủ tâm gây hại mà còn từ bỏ gây hại không cần thiết và có ảnh hưởng quan trọng trong cách áp dụng biện pháp vô hiệu hoá.
Tôi phân tích khái niệm thiệt hại và lập luận rằng hiểu biết theo quan điểm Phật giáo sẽ đưa tới kết luận rõ hơn là không có một chuẩn mực nào biện minh cho trừng phạt là phù hợp với tinh thần bất bạo động.
Nguyên tác: Buddhism, Punishment, and Reconciliation, Journal of Buddhist Ethics, Volume 19, 2012, 371-395, http://blogs.dickinson.edu/buddhistethics/
Johan Galtung - Phật Giáo và Hoà Bình Thế Giới
Như đã được giải thích khá phổ cập, giới luật đầu tiên của phật giáo có quan hệ đến lời khấn nguyện tuân theo tinh thần bất bạo động. trước trên và quan trọng hơn hết là điều này được hiểu là ta cam kết sẽ không có chủ tâm giết bất cứ một sinh vật hữu tình nào. hiểu bao quát hơn thì ta sẽ không cố ý làm hại bất cứ ai. nếu hiểu tinh thần bất bạo động rộng như vậy thì điểm chính là ta đo lường về hậu quả của giới luật đầu tiên này có quan hệ với việc đối xử với người gây thiệt hại. nhưng nếu ta đồng ý là phải có trừng phạt khi có chủ ý gây ra thiệt hại, thì hậu quả của vấn đề là biện pháp trừng phạt sẽ không phù hợp với giới luật đầu tiên. trong bài viết sau đây tôi sẽ triển khai lập luận này và cố minh chứng là hoà giải, một giải pháp tương ứng thay cho trừng phạt, là một cách nắm bắt tốt đẹp nhất về tinh thần bất bạo động của phật giáo.
Trừng phạt liên quan đến việc bắt phải chịu thiệt hại, mà tiêu biểu nhất là có một vài hình thức chịu khổ. điều này tự nó là có vấn đề thuộc về khía cạnh đạo đức, nhưng điểm làm cho trừng phạt thành vấn đề là khi có quan hệ tới hành vi chủ ý bắt phải chịu đựng thiệt hại.
Thí dụ, người theo chủ thuyết trừng phạt tin là phạm nhân phải bị trừng phạt, đó là chuyện đơn thuần, vì lẽ phạm nhân phải chịu hậu quả như là cứu cánh tự tại. đối với họ, nếu trừng phạt có phải là biện pháp hữu hiệu làm giảm bớt tội phạm hay không, đó lại là chuyện khác
Những người theo chủ thuyết ngăn ngưà tin là trừng phạt phạm nhân là phương tiện để đạt cứu cánh: vì vừa ngăn chận cá nhân họ không được tái phạm (ngăn ngừa đặc biệt) vừa ngăn chận công luận tránh thái độ hình sự (ngăn ngừa tổng quát). theo lối suy nghĩ này, thì trong cả hai trường hợp, phạm nhân phải chịu hình phạt do tội của mình gây ra.
Nếu có suy nghĩ như vậy, điều hiển nhiên là trừng phạt phải được phân biệt với một số phương cách sau đây, mà đôi khi được sử dụng và dù không được xem như biện pháp tương ứng, thì ít nhất cũng xem là cách bổ sung cho trừng phạt.
Phạm nhân hình sự bị vô hiệu hoá khi họ bị ngăn ngừa không còn cách tái phạm. Cách này có thể liên quan đến việc giam giữ, nhưng cũng có những cách khác làm vô hiệu hoá, tùy theo bản chất của vi phạm. Một cách đơn giản làm vô hiệu hoá người lái xe say ruợu là giam xe; người vi phạm tội về T*nh d*c là cho dùng Thu*c cai nghiện M* t*y; đối với một số lớn các vi phạm có một hình thức thay cho giam giữ là kiểm soát bằng điện, thí dụ như dùng điện để ở cổ chân.
Thí dụ như trong kinh chuyện Tiền Thân Đức Phật (Kurudhamma Jātaka), theo ý kiến của Peter Harvey, có nhấn mạnh là “không chủ tâm làm hại tha nhân không xem là làm hại, mà khi còn nặng lòng lo nghĩ vấn đề này là thiếu khôn ngoan, như "chuyện vua bắn cung lên trời trong buổi lễ, khi mất một cây cung, vua lo cây cung sẽ rơi xuống hồ và giết ch*t cá".
Giữa đạo đức phật giáo và kỳ na giáo thường được nhận định là dù có chung một nền tảng, nhưng lại có dị biệt nhau về khía cạnh chủ yếu này. theo đạo kỳ na, ngay cả khi không có chủ tâm giết một sinh vật hữu tình, kể cả việc tình cờ làm ch*t một côn trùng, thì cũng là tạo nghiệp ác.
Phân tích này là khả tín nếu ta nghĩ là hậu quả của hành động, dù không có chủ tâm, nhưng có thể tiên đoán được, không liên hệ đến việc phải chịu có gây nghiệp ác hay không (hay chịu hậu quả tai hại hơn). hiểu biết của phật giáo về sự siêu hình của nghiệp và cơ chế mà nghiệp gây hậu quả hoàn toàn khác biệt với ý nghĩa của kỳ na giáo. nhưng nếu cho rằng hậu quả của hành vi không chủ tâm nhưng có thể tiên đoán được không gây chịu đựng về một hành vi đạo đức xấu, điều này có thuyết phục được không?
Thí dụ như tôi quyết định việc tập bắn cung trong sân sau nhà tôi, trong lằn ranh nhà bên cạnh sân chơi của trẻ. Nếu có một đứa trẻ bị trúng tên và ch*t, điều này có quy trách cho tôi được không, khi tôi không có chủ tâm giết trẻ? Nhưng suy đoán rằng tôi thường xuyên bắn sai mục tiêu làm ch*t nhiều trẻ khác, thì đối với tôi, đó có phải là chuyện phải ray rứt về những T*i n*n không may này không?
Khi phân loại việc này ra, ta có thể bắt đầu nhận ra rằng đạo đức Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với thuyết vụ lợi, vì không nói rằng hành vi là tốt hay xấu, vì nó có hậu quả tốt hay xấu, nhưng nói là mọi hành vi có hậu quả tốt hay xấu (đặc biệt là hậu quả theo nghiệp tốt hay xấu) vì hành vi tốt hay xấu. Một hành vi có giá trị đạo đức hay vô đạo đức do tâm trạng nội tại của con người, không tùy thuộc vào hậu quả ngoại lai của hành động. Nếu như thế, có thể là một hành vi tác hại là nghiệp ác chỉ khi nào tác hại có chủ ý (bởi vì cơ chế của nghiệp, dù tốt hay xấu, hứng chịu thành quả); một hành vi có thể là xấu về mặt đạo đức bởi vì tính chất cố hữu của nó là xấu.
Giả dụ rằng trong tâm trạng mừng lễ tôi bắn súng lên không trung và không hề để ý rằng đạn sẽ có thể trở lại mặt đất và làm ch*t hay bị thương người. Khả năng này có thể không bao giờ xãy ra cho tôi, trong trường hợp mà tôi hành động lơ đễnh, không để tâm đến hậu quả có thể xãy ra do hành động này. Hoặc cũng có thể là tôi có ý thức rõ về khả năng này. Hiển nhiên, tôi có hành động sai trái về một cái gì đó và tôi cũng không thể xin lỗi về sự bất cẩn này bằng cách nói rằng tôi không hề chủ ý làm hại ai. Tôi đang làm một cái gì đó sai trái, cho dù tôi không hề có ý định làm hại ai và thực ra tôi có gây hại hay không.
Theo đạo đức của Kỳ Na giáo thì khấn nguyện tuân thủ theo tinh thần bất bạo đông được hiểu trước hết và quan trọng trên hết là lòng khâm tuân cẩn trọng. Để thực hiện lời nguyện này, tín đồ phải làm bất cứ điều thiết yếu nào để tránh gây hại cho bất cứ sinh vật hữu tình nào, bất kể là có chủ ý hay không. Nếu không làm trọn, việc khấn hứa không thành, dù bất kỳ là sinh vật hữu tình có thực sự bị thiệt hại hay không. Tu sĩ khất thực theo đạo Kỳ Na có thể khấn nguyện theo tinh thần bất bạo động này một cách cực đoan, thí dụ như họ đội mũ che đầu để tránh hít phải ruồi, dường như họ nắm bắt được tinh thần này hơn là chỉ khấn nguyện xuông là không chủ tâm làm hại.
Có nhiều bằng chứng của Phật tử lúc sơ khai chấp nhận khái niệm rộng hơn về bất bạo động. Sư tăng cũng tuân thủ theo khuôn mẫu của Kỳ Na giáo, thường miễn cưỡng phải uống nước để tránh nuốt các sinh vật cực nhỏ. Đức Phật có dạy sư tăng, nếu phải di chuyển thường, cũng nên tránh đi lại trong mùa mưa tình cờ dẫm ch*t côn trùng dưới chân. Hành vi bất cẩn cũng bị minh thị kết án. Trường hợp mà kinh điển nói tới đó là có một vị sư ngồi trên đống giẻ rách vô tình giết ch*t một trẻ thơ nằm trong. Có trường hợp tương tự là có một vị sư ném hòn đá từ trên núi xuống và không có ý giết ch*t người dưới núi. Cả hai trường hợp theo kinh điển là có kết án các vị sư này sai trái.
Quan điểm rộng hơn về bất bạo động - như là một khấn nguyện bảo trọng - tự nó có sức thuyết phục nhiều hơn, đặc biệt là trong khuôn khổ đạo đức về tính hạnh. giả dụ như một y sĩ có thể trị liệu cho bịnh nhân hết bịnh với một trong hai cách x và y. cả hai cách điều trị đều có hai hậu quả phụ, nhưng hậu quả của cách x là tệ hơn của y. nếu theo quan điểm hẹp hòi về bất bạo động thì chuyện trị liệu theo x hay y đều không quan trọng, vì chủ tâm của y sĩ là không làm hại bệnh nhân.
Hậu quả phụ của trị liệu dù có thể nhận ra được, nhưng không có chủ tâm không liên quan đến việc vị y sĩ chọn lựa Thu*c nào. Tuy nhiên, nếu xét trên một khía cạnh rộng hơn, thì vấn đề hậu quả phụ này phải đặt ra để cứu xét. Hiển nhiên, y sĩ phạm phải bất cẩn khi cho Thu*c mà không để ý tác dụng phụ của Thu*c gây ra. Cũng có thể cho là bất cẩn gia trọng hay nhẫn tâm khi y sĩ cho Thu*c X khi biết rằng là tác hại hơn Y. Trong cả hai trường hợp, về phương diện đạo đức, thái độ của y sĩ là xấu và trái với nguyên tắc bất bạo động, nếu ta hiểu một cách rông hơn. Nói chung, hành động này có thể được mô tả là cùng một loại với bất cẩn, lơ đểnh, không bảo trọng, hay nhẫn tâm.
Đức Phật có khuyên chúng sinh nên bộc lộ từ tâm đối với các sinh vật hữu tình và thái độ bất cẩn, lơ đểnh, thiếu cẩn trọng hay nhẫn tâm chắc chắn là ngược lại với đạo đức từ bi. Nói một cách thực tế, không ai có thể sống một cuộc đời hoàn toàn vô hại, nhưng người ta phải cố gắng tối thiểu hóa gây ra tổn hại.
Trên môt quan điểm rộng hơn, người tuân thủ thuyết bất bạo động không chỉ giới hạn việc không chủ tâm làm hại người khác mà cũng còn tránh việc gây hại thái quá không cần thiết. có thể tha thứ dù gây ra thiệt hại tiên đoán được khi có ý tốt (như trường hợp y sĩ cho Thu*c và biết được hậu quả phụ có thể gây xấu), điều này cũng còn áp dụng cho trường hợp khi điều thiệt hại xãy ra không vượt mức cần thiết khi mang lại thiện ý.
Khái niệm bất bạo động này có hậu quả đạo đức quan trọng liên quan đến cách áp dụng biện pháp vô hiệu hoá. thí dụ như người ta có thể lập luận rằng giam giữ phạm nhân có gây baọ động càng lâu là càng tốt vì để bảo vệ công chúng, đây là một tình trạng luôn được biện minh. biện pháp này cũng đúng cho trường hợp phạm nhân cần vô hiệu hoá, khi họ bị quản thúc bằng điện. điều này đúng trong một quan điểm hẹp hòi về tinh thần bất bạo động, nhưng không đúng khi theo một quan điểm rộng.
Bảo vệ công chúng là một ý tốt, trong khi người ta có thể có những biện pháp an toàn công cộng khác và ít gây tổn hại hơn thì không thể biện minh là còn cần giam giữ phạm nhân. Có ảnh hưởng khác là vô hiệu hoá không thể biện minh như một cách chấp pháp và suy đoán giam giữ luôn là giải pháp không nhất thiết bắt buộc. Và ngay cả khi giam giữ trong những điều kiện tàn bạo và trở thành vô nhân đạo như trong tình trạng hiện nay, là không thể biện minh, khi chấp nhận tình trạng giam giữ này là làm hại một cách không cần thiết. Nói chung, biện pháp vô hiệu hoá chỉ thật sư là bất bạo động nếu chỉ khi nó gây sự chịu đựng thiệt hại ở mức tối thiểu cần thiết để vô hiệu hoá phạm nhân.
Đông lực tốt thường đi chung với ý định tốt và động lực xấu đi chung với ý định xấu. nhưng trường hợp này có luôn xãy ra không? theo phẩm thánh đế (ārya-satyaka-parivarta), một bản kinh của phật giáo có kể một vị vua liêm chính với lòng từ tâm phải trừ kẻ gian giống như cha trừng phạt con. là bậc phụ huynh, với tình thương tôi có thể bị thúc dục để trách phạt con, chủ ý trước mắt của tôi là làm cho con tôi chịu khổ, nếu làm khác đi thì việc quở trách không có tác dụng. nhưng nếu tôi được thúc dục do lòng thương cảm, chủ tâm tối hậu của tôi là sẽ đem lợi cho con trong một cách nào đó. nếu tôi quở phạt con, hành động làm hại con với chủ ý có trong ý nghiã này là tôi làm trái lại với giới luật đầu tiên không?
Câu trả lời đơn giản là chủ ý trước mắt của tôi là làm hại con tôi nhưng hậu ý là làm lợi cho con. Nhưng câu trả lời này quá đơn giản. Làm hại một người là làm người đó tệ hơn những gì mà họ đang có. Mặc dù tôi hại con trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài con tôi có thể được lợi. Vậy thì vấn đề là nếu tôi có ý hại con trong ý nghĩa này thì có khi nào tôi làm cho con tệ hơn trong lâu dài không (khi được so sánh để tổng kết hay mọi sự việc được xét đến). Nếu như thế phải giả dụ rằng con tôi, khi đúc kết lại, sẽ tốt hơn, do kết quả cuả quở phạt, thì tôi không có ý định làm hại cho con. Thực ra, hành vi cuả tôi là có công đức bởi vì có động lực tốt, thiện ý và khôn ngoan.
Có nhiều lý do để chấp nhận lối giải thích này. phật giáo tiểu thừa xem giới luật này có đặc tính đạo đức tuyệt đối. khi các đấng a la hán (arahat) đã triệt để nhập tâm giới luật này, đối với họ, có chủ ý hại bất cứ ai, nói dối, trộm cắp hay phạm giới luật khác là không thể chấp nhận được. mặt khác, phật giáo đại thừa cho phép có ngoại lệ qua danh nghĩa là có phương tiện thiện xảo.
Ngay cả khi chấp nhận những ngoại lệ này, mục tiêu cao cả là mọi sinh vật hữu tình đều hưởng lợi, cuối cùng là không ai chịu thiệt, đó là chuyện hiển nhiên. Lấy một thí dụ quan trọng, Vua A Xà Thế (Asangua) lập luận là các giới luật này có thể được vi phạm - ngay cả giới luật cấm sát sanh - chỉ khi nào có chủ ý làm lợi cho tất cả chúng sinh. Một trong những thí dụ của ông là giết một tên cướp sẽ phạm tội giết hàng loạt người.
Nếu cắt nghĩa tương tự như vậy, vị Bồ tát có thể nhìn tên cướp hay trộm, vì lợi vật chất mà tàn sát hàng trăm sinh linh, nên sẽ bị quả báo nhãn tiền. Nhìn cảnh này, vị này có thể nghĩ trong đầu: "Nếu tôi Gi*t người này, thì tôi sẽ tái sinh vào cảnh giới địa ngục. Chẳng thà tôi sinh vào cảnh giới địa ngục tốt hơn là để người này bị quả báo nhãn tiền phải sa ngay vào địa ngục." Với thái độ như thế vị Bồ tát đoan chắc suy nghĩ là đạo đức hoặc lưng chừng, và cảm thấy bị miễn cuỡng với lối suy nghĩ của lòng nhân từ đối với hậu quả, vị này sẽ giết tên cướp. Điều này không sai trái, công được được tán thán.
Hành vi là công đức vì vị bồ tát có từ tâm làm động lực và do trí huệ dẫn dắt mà hành đông với thiện ý làm lợi cho tên cươp và nạn nhân. vua a xà thế không đồng ý lối cân bằng theo cách so sánh các hữu dụng - điều này có nghĩa là làm hại cho người này vì có mục tiêu là đem thuần lợi lộc lớn hơn cho người kia -, hoặc ít nhất không một thí dụ nào mà ông đề ra mà ông chịu làm theo. tuy nhiên, khi cho là không có một nhân vật nào có tầm vóc lịch sử trong phật giáo cho phép việc này, đây là một kết luận vội vàng.
Charles goodman trích dẫn lời cuả tôn giả tịch thiên, (santideva), khi cho rằng tôn giả cho là sai trái nếu "vị này không tạo khổ nhỏ và phiền não là cách để tránh được khổ và phiền não to tát hơn. goodman giải thích quan điểm này như là một lối đề cao sự dung hoà cuả hai cách hữu dụng. nhưng goodman cũng công nhận tôn giả ở văn bản khác cũng có đặc biệt nêu rõ mong ước không làm hại sinh vật hữu tình "đừng bao giờ để người khác khổ vì do lý do của mình“.
Làm thế nào để dung hoà những đòi hỏi đối nghịch của Tôn Giả? Một khả năng có thể xãy ra như sau. Lời khấn nguyện của Bồ tát là để đưa tất cả mọi sinh linh vượt qua bể luân hồi đặt tới bến Niết Bàn, và một số hành trì để đạt mục tiêu khấn nguyện này có thể làm hại sinh linh, nhưng chỉ trong đoản kỳ. Về trường kỳ, thì Bồ tát này có khả năng đem lợi tất cả mọi chúng sinh để họ trở thành Bồ tát.
Trong trường kỳ tất cả mọi chúng sinh đều hưởng lợi với việc hành trì của Bồ tát, điều này có nghĩa là cuối cùng không ai bi tổn hại. Nếu suy nghĩ này là đúng, Tôn Giả cũng không cho phép so sánh đúc kết theo cách thực dụng. Sự khác biệt giữa Tôn Giả và vua A Xà Thế đơn giản là ở điểm Tôn Giả chấp nhận quan điểm rộng hơn, chú ý tới mục tiêu xa của giải thoát tất cả mọi sinh linh khỏi vòng đau khổ.
Có một câu chuyện thú vị cuả Hariti do Charles Goodman kể lại. Hariti là một khuôn mặt ác quỷ có tiếng xấu trong việc bắt cóc và giết trẻ con. Đức Phật với ý định làm để làm tĩnh thưc về sự đồng cảm của Hariti, ngài bắt cóc một trong những người con của Hariti. Harirti nổi giận tìm gặp Đức Phật. Theo lời kể của Goodman, "Đức Phật mới chỉ ra rằng cơn thịnh nộ của Hariti cũng giống như những cảm xúc của các bà mẹ bình thường khác phải trải nghiệm khi con bị Hariti giết." Nhờ thế, bấy giờ Hariti mới biết đánh giá sự nghiệm trọng về mặt đạo đức của tội ác, bà vượt qua được với sự ăn năn và chấp nhận lời khuyên của Đức Phật, thôi làm việc sai trái và trở thành một vị thánh nữ phù hộ cho trẻ con.
Ý nghĩa đạo đức của câu chuyện thật rõ. Nếu phạm nhân có thiện cảm với nạn nhân, họ phải hiểu được đối xử khi họ đã đối xử với nạn nhân. Một cách có thể làm cho phạm nhân hiểu được vấn đề là buộc phạm nhân cũng phải chịu cách đối xử giống như nạn nhân. Lối báo thù "mắt đổi mắt" có thể được xem như một phương tiện hữu hiệu làm tĩnh thức sự đồng cảm trong lòng phạm nhân.
Nếu cho rằng phục hồi có tính trừng phạt đem lợi cho phạm nhân trong lâu dài, người ta có thể lập luận là cách này không làm hại cho phạm nhân, và chính thế sẽ không có xung khắc với giới luật đầu tiên. trước khi đồng ý với lập luận này, thì cũng có một cái gì đó, ít nhất cần phải cân nhắc có ba ý kiến đối nghịch để xét đúc kết cho công bình.
Thứ nhất, thật là không đơn giản khi cho rằng trừng phạt, đặc biệt là cách báo thù "mắt đổi mắt" sẽ có những hiệu ứng như dự định. lối giao trả quỷ cho quỷ có thể dạy cho kẻ làm điều sai trái là họ sẽ đối xử như những gì mà họ đối với nạn nhân của họ, nhưng lối đối xử như thế cũng gây thêm thù hận giống như cách tạo thương cảm. chính vì thế mà lối phục hồi có tính trừng phạt có thể bị phê bình là điên rồ.
Thứ hai, cũng không thể nói là hiển nhiên khi xem trừng phạt là cách duy nhất giải quyết được cho xong vấn đề cho một số người. nếu có lời khiễn trách, nhưng không phải là trừng phạt cho phạm nhân và thuyết phục được họ ăn năn về tội ác, như vậy thì trừng phạt có hại vì không cần thiết. vì thế mà phục hồi có tính trừng phạt được phê bình là nhẫn tâm.
Cuối cùng, cũng có thể ngạc nhiên khi xem cứu cánh có thể biện minh có được không. Nếu tôi biết vợ tôi ngoại tình, tôi sẽ phải biện minh như thế nào? đối xử tàn nhẫn xem như trách cứ nặng nề? thuyết phục nhà tôi ăn năn về lòng chung thủy? Liệu tôi có nên ngoại tình để làm tĩnh thức sự cảm thông của nhà tôi không? Chúng ta có thể biện minh bằng sự dối trá đối với người nói dối không, chúng ta có thể biện minh việc trộm đạo đối với kẻ trộm không, tương tự như vậy khi dùng hãm hiếp đối với kẻ cưỡng hiếp, và tra tấn với kẻ tra tấn để chúng ta có thể giúp phạm nhân đồng cảm với nạn nhân không ? Tăng sĩ theo Đại thừa có thể tha thứ những cách như thế khi nhân danh phương cách thiện xảo, nhưng việc này dường như không phù hợp với nội dung giáo lý cuả Đức Phật, vì chinh phục ác tâm bằng thiện tâm.
Tôi đã lập luận là có nhiều cách tương tự thay thế cho trừng phạt và có tính bất bạo động, đó là vô hiệu hoá, bồi thường, phục hồi không có tính trừng phạt và hoà giải. dĩ nhiên, chúng ta không cần chọn giữa những giải pháp tương ứng này. thực ra, hoà giải, như ta thường hiểu và thực hành một cách khá phổ biến, kết hợp được cả ba. tội phạm biểu hiện vi phạm về niềm tin, và vô hiệu hoá (có thể có mà cũng có thể không liên hệ đến việc giam giữ) được biện minh cho đến khi nào niềm tin được phục hồi. phạm nhân có được cơ hội làm kết thúc tiến trình hoà giải như là điều kiện cho phục hồi niềm tin, (mà từ đó mà cũng đem lại tự do toàn diện cho phạm nhân).
Cách thông thường nhất để hiểu được tiến trành này như sau. Nếu tôi có sai phạm với anh, anh có thể yêu cầu tôi chịu trách nhiệm những gì tôi đã làm và như thế tôi nhận được sự tha thứ của anh. Nói bao quát hơn, tôi thoả mãn điều kiện này nếu
4) vì ăn năn, xin lỗi hành vi sai trái, khấn nguyện không tái phạm, thay đổi cá tính cần thiết để giữ lời khấn nguyện này và tôi bồi thường toàn bộ.
Dĩ nhiên, điều này không có bảo đảm là anh sẽ tha thứ cho tôi. Nhưng nếu tôi hoàn tất được tiến trình này, tôi sẽ nhận được sự tha thứ cùa anh và bất cứ thù hận nào mà anh có thể còn có dành cho tôi đều không thể được biện minh.
Đương nhiên, cũng có những phản biện về cách hoà giải này về mặt thực tế và lý thuyết. Tiến trình hoà giải đòi hỏi phạm nhân ăn năn về tội ác của mình. Nhưng cách người ta kêu gọi ăn năn như thế nào cho các phạm nhân mang tội gia trọng? Tiến trình này đòi hỏi là nạn nhân phải được bồi thường thiệt hại. Nhưng bồi thường có phải luôn là chuyện khả thi không? Thí dụ như nạn nhân của một tên sát nhân hay cưỡng hiếp được phải bồi thường như thế nào? Hoàn tất tiến trình này, phạm nhân phải đưọc nạn nhân tha thứ. Nhưng có loại tội ác không thể tha thứ không? Thí dụ như có trường hợp sát nhân mà không còn nạn nhân để tha thứ cho sát nhân. Vậy phải làm sao? Đây là một vấn đề nghiêm trọng và không thể trà lời để làm thoả mãn mọi ngưòi. Tuy nhiên, vấn đề mà tôi muốn đề ra trong phần còn lại cuả bài viết này là khuôn mẫu hoà giải có hỗ trợ mục tiêu hành trì theo đạo Phật không?
Như tôi đã nêu lên đặc điểm về mô hình hoà giải, mô hình này có thể được xem là một cách đã được thế tục hoá trong cách tu tập theo “bốn trở lực“ theo cách giáo huấn của phật giáo tây tạng. bốn động lực đó là ăn năn, tự lực, trị liệu và giải quyết. sử dụng lực hối tiêc có nghĩa là nhiệt tình khởi động lòng ân hận liên hệ đến hành vi sai trái. tinh thần tự lực quan hệ đến khẩn cầu tam bảo và khơi động tâm giác ngộ. trị liệu liên quan đến thực hành việc công đức nhằm mục đích thanh lọc nghiệp sai trái, hồi hướng công đức (như là một hình thức bồi thường về mặt tâm linh) cho những thiệt hại do việc sai trái. cuối cùng, áp dụng năng lực để giải quyết là khởi động quyết tâm không bao giời tái phạm hành vi sai trái. như thế có nghĩa là không có nghiệp ác không thể không được thanh lọc qua việc hành trì theo bốn lực này. trong truyền thông tiểu thừa tìm kiếm sự tha thứ được nhấn mạnh và hoà giải được thể thức hoá trong kinh điển.
Vì thế, mô hình hoả giải dường như hỗ trợ cho mục tiêu hành trì theo đạo Phật, nhưng cũng có thể còn là nguồn gốc của xung đột. Mô hình này suy đoán rằng hoà giải sẽ phù hợp đối với phạm nhân biết ăn năn về tội phạm của mình, nhưng cũng phù hợp khi nạn nhân có oán hận phạm nhân.
Trước hết, oán hận được công nhận là phù hợp vì đó là sự biểu lộ lòng tự trọng. Là nạn nhân của một tội phạm nghĩa là họ bị đối xử như một đồ vật không phải là người. Tội ác là biểu tượng và gây cho nạn nhân chịu đựng đau khổ về thể xác lẫn tinh thần, nhưng tội ác cũng là một hành vi biểu lộ sự thông đạt. Thông đạt cho nạn nhân biết rằng họ không phải là người mà được sử dụng hay lạm dụng như đồ vật. Oán hận của phạm nhân là cách đối nghịch với loại thông đạt này khi họ xác định rằng họ có giá trị cố hữu như một con người.
Thứ hai, oán hận là phù hợp, vì không có oán hận sẽ không có tha thứ. Tha thứ phạm nhân là từ bỏ oán hận đối với phạm nhân. Nếu tha thứ của nạn nhân dành cho phạm nhân là phù hợp, thì cũng phải chấp nhận là khi nạn nhân có lòng oán hận phạm nhân cũng là ý kiến phù hợp.
Đức Phật dạy Phật tử không áp ủ lòng thù hận, giận dữ hay có ý xấu với bất cứ ai. Đoạn văn sau đây trích từ Trung Bộ kinh (Kakacūpama Sutta (Majjhima Nikāya I 3.1) là biểu trưng cho lời giáo huấn của Ngài:
Nếu ngưòi nói xấu cho anh, anh phải nghĩ là: "Tâm tôi không nao núng, mà theo từ bi không oán thù. Anh nghĩ về người nói xấu mình với từ tâm, và trong từ tâm này anh sẽ trụ tâm. Từ sự thành tâm này ta sẽ đem đến cho toàn cõi thế gian với tình yêu thương quảng đại vô bờ bến"
Hơn nữa, dù cho những kẻ cướp tấn công và cắt đứt hết tay chân bằng một cái cưa hai cán, người nào vì kẻ ấy mà trong lòng nổi lên sân hận, thì đó không phải người thực hành giáo lý của ta."
Nếu không có tha thứ không oán hận và nếu không có chổ cho oán hận trong đạo đức Phật giáo, thì dường như cũng không có chổ cho tha thứ. Khi suy nghĩ về vấn đề này, điều quan trọng để thực hiện là người ta có nên oán giận đối với người lạm dụng mình không, họ làm như vậy, và đó là điều oán giận mà Đức Phật khuyên tín đồ phải bỏ qua.
Nói một cách lý tưởng, người ta không nên ấp ủ cảm tưởng xấu xa, dù có thách thức trong bất cứ vấn đề gì, nhưng cứ chấp nhận người ta làm, điểm chính là họ phải để cho qua những cảm tưởng này.
Trong kinh Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga (IX 14- 39), Buddaghosa hướng dẫn độc giả qua một số suy nghĩ để giải quyết cảm tưởng thù hận, có chổ ông viết như sau:
Tôn Giả Tịch Thiên đã dành trọn một chưong trong Bồ Đề Hạnh Kinh Luận (Bodhi-caryāvatāra) để nói về sự tôi luyện lòng khoan nhẫn như một loại Thu*c giải độc cho cơn giận. Tôn Giả khuyên người đọc nên suy nghĩ như sau:
Theo lời Tôn Giả, cho dù bất cứ ma quỷ nào đến với tôi, bất cứ bất hạnh nào mà tôi phải trải nghiệm, đó là kết quả của nghiệp thuộc về các hành động trong quá khứ. Nếu tôi không tạo điều ác trong qúa khứ, thì tôi sẽ không có trải nghiệm việc ác trong hiện tại. Chính vì lý do này mà hoàn toàn vô lý khi tôi thóa mạ kẻ thù khi họ gây khổ cho tôi.
Tha thứ cho một người nào đó là từ bỏ cảm giác thù hận dành cho họ, Phật giáo có rất nhiều lời khuyên thực tiễn để đạt thành ước nguyện này. Tiến trình hoà giải hỗ trợ cho mục tiêu này. Những suy nghĩ cuả Buddhaghosa hay Tịch Thiên có thể thuyết phục, mà cũng có thể không, nạn nhân của tội ác, nhưng họ có thể và nên tha thứ cho người đáng nhận được tha thứ.
Tiến trình hoà giải, nếu được thành công, thì dường như nó sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các người bị ảnh hưởng đến tội phạm.
Tiến trình này đem lợi cho nan nhân cũng như đền bù cho họ những mất mát, và quan trọng hơn, (ít nhất theo quan điểm của Phật giáo) giải quyết được cảm tưởng thù hận.
Tiến trình này cũng mang lợi cho phạm nhân vì phát huy việc cải thiện đạo đức và chuộc lại hành vi sai trái trong quá khứ.
Nhờ thế hoà giải hỗ trợ cho mục tiêu cuả việc tu tập theo Phật giáo và nó phù hợp với nguyên tác bất bạo động, trong cả hai lĩnh vực, vưà theo ý của ngôn ngữ và trong tinh thần.