Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết hôm nay

Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết: chẩn đoán và điều trị

Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.

Điểm chính trong chẩn đoán

Các vệt đỏ từ vết thương hoặc vùng viêm mô tế bào hướng đi về vùng nút bạch huyết, mà thường lan rộng và nhạy cảm đau.

Có thể có ớn lạnh, sốt và khó chịu.

Nhận định chung

Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết thường là biểu hiện của nhiễm vi khuẩn mà nguyên nhân thường là liên cầu tan huyết hoặc tụ cầu (hoặc bởi cả hai) và thường mọc lên từ vùng viêm mô tế bào, nói chung ở vị trí của vết thương nhiễm trùng, vết thương này có thể rất nhỏ hoặc nông, hoặc có áp xe, vi khuẩn từ đó lan vào hệ bạch huyết.

Hệ bạch huyết thường biểu hiện bởi các vệt đỏ từ da trải dài hướng đến vùng hạch bạch huyết, còn các hạch bạch huyết thì sưng cứng và nhạy cảm đau. Biểu hiện toàn thân bao gồm sốt, ớn lạnh và khó chịu. Nhiễm trùng có thể tiến triển nhanh, thường trong vài giờ, có thể dẫn tới nhiễm khuẩn huyết và thậm chí Tu vong.

Triệu chứng và dấu hiệu

Đau rộn lên thường biểu hiện ở vùng viêm mô tế bào là vị trí xâm nhập của vi khuẩn. Khó chịu, chán ăn, toát mồ hôi, ớn lạnh, và sốt (37°8 - 40°C (100 - 104°F) tiến triển rất nhanh. Vệt đỏ, khi biểu hiện có thể dễ xác định hoặc có thể rất mập mờ và dễ bị bỏ sót, đặc biệt ở những bệnh nhân có màu da sẫm. Nhưng nó thường không cứng hoặc nhạy cảm đau như vung viêm mô tế bào. Vùng hạch lympho có thể rộng ra một cách đáng kể và thường nhạy cảm đau rõ ràng. Mạch thường nhanh.

Cận lâm sàng

Thường có tăng bạch cầu. Sau đó, cấy máu có thể dương tính, phần lớn thường thấy là tụ cầu và liên cầu. Cấy và các xét nghiệm có độ nhậy tiến hành trên dịch rỉ hoặc mủ từ vết thương chảy ra có thể giúp ích cho điều trị các ca nặng hoặc các nhiễu trùng trơ với điều trị nhưng thường khó khăn trong phân lập do da nhiễm nhiều tạp khuẩn.

Chấn đoán phân biệt

Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối. Huyết khối tĩnh mạch không bao giờ phối hợp với viêm hạch bạch huyết, và vết thương có viêm mô da thứ phát nói chung là không có. Viêm tĩnh mạch huyết khối thường là do điều trị bằng đường tĩnh mạch, đặc biệt khi kim hoặc ống thông tháo ra sau lưu quá 2 ngày; nếu vi khuẩn cũng được đưa vào, viêm tĩnh mạch huyết khối sưng mủ có thể xảy ra.

Sốt do mèo cào cũng nên xém xét khi viêm hạch bạch huyết biểu hiện ở hạch, thường sưng rất to, không nhậy cảm đau. Tiếp xúc với mèo là rất thường xuyên, nhưng bệnh nhân thường quên các vết xước.

Điều quan trọng nhất là phân biệt viêm mô tế vào với các nhiễm khuẩn mô mềm mà đòi hỏi phải rạch da sớm và điều trị tích cực và thường cắt đi các mô đã nhiễm trùng hoại tử, như là hoại thư do liên cầu tan huyết cấp, viêm cân hoại tử, hoại thư da do vi khuẩn gram âm kị khí, hoại thư tiến triển nhanh do cộng hưởng các vi khuẩn. Ở những nhiễm khuẩn sâu hơn mà tổn thương giải phẫu rộng hơn thì bệnh nhân sẽ ốm nặng hơn, và dưới da có thể chảy mủ khi ta sờ nắn hoặc khám có ép nhẹ lên vùng tổn thương.

Điều trị

Biện pháp chung

Nhanh chóng chườm nóng (băng ẩm nóng hoặc chườm túi nóng) và cố định ở vùng nhiễm khuẩn. Có thể dùng Thu*c giảm đau.

Biện pháp đặc hiệu

Điều trị kháng sinh luôn luôn nên dùng khi nhiễm trùng tại chỗ đang xâm nhiễm, như biểu hiện có viêm mô tế bào và viêm mạch bạch huyết. Bởi vì vi khuẩn gây bệnh thường là liên cầu, nên Thu*c thường chọn là penicilin G, mặc dù penicilin kháng tụ cầu (như là nafcillin) hoặc cephalosporin có thể thích hợp trong vài trường hợp. Nếu bệnh nhân dị ứng với pehicillin, có thể được dùng thay thế bằng erythromycin.

Chăm sóc vết thương

Dẫn lưu mủ từ vết thương nhiễm trùng nên được làm, nói chung là sau khi thi hành các biện pháp trên và chỉ khi rõ ràng là có áp xe ở vị trí nhiễm trùng đầu tiên.

Không nên rạch vùng vùng viêm mô tế bào bởi vì nhiễm khuẩn có thể lan tràn do dẫn lưu khi mà mủ chưa có.

Tiên lượng

Với điều trị thích hợp, và đặc biệt là dùng kháng sinh có hiệu quả chống lại vi khuẩn xâm nhập, điều trị nhiễm khuẩn thường có hiệu quả trong vài ngày. Điều trị chậm và không thích hợp có thể dẫn tới nhiễm khuẩn lan tràn và nhiễm khuẩn máu.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/chandoanmaubachhuyet/viem-mach-bach-huyet-va-viem-hach-bach-huyet-chan-doan-va-dieu-tri/)

Tin cùng nội dung

  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn bao gồm liệu pháp dinh dưỡng (xem phần Điều trị triệu chứng) và/hoặc điều trị bằng Thu*c
  • Mọi người đều cần có một chế độ ăn uống khoa học và thường xuyên tập thể dục để có sức khỏe tốt và ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh nhân ung thư có những nhu cầu sức khỏe đặc biệt, bởi vì họ phải đối mặt với những nguy cơ liên quan đến tác dụng phụ muộn cũng như sự tái phát của căn bệnh này
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY