“Vô ngã” nghĩa là không có cái “Ta”, không có cái bản ngã, cái bản thể. Đối với người, đối với mình, đối với mọi người mọi vật không chấp có một cái thân thể thường tồn, nhất định, mà cho rằng chỉ là một cái thân do ngũ uẩn tạm thời hòa hợp mà thôi. Hiểu như vậy thời dứt “phiền não chướng”, không còn mê tối vì các sự buồn rầu, hờn giận. Vạn vật biến đổi nhanh chóng, không có một tự thể riêng biệt, một chất cố định, một cái “ta” chắc thật, riêng cho mỗi vật. Hãy thử xét cái “ta” trong con người xem có phải là xác thân hay là tâm linh (linh hồn), hoặc là cả hai thứ hợp lại.
Nếu “ta” là xác thân (mà trong Phật học gọi là Sắc) thì xác thân chỉ là sự tạm hợp của bốn chất “Tứ đại”. Bốn chất lớn trong thế giới tạm hợp lại làm thành con người và vạn vật, đó là: “địa, thủy, hỏa và phong”. “Địa” là đất, là chất cứng như thịt, xương…; “Thủy” là nước, là chất lỏng như máu, nước mắt, nước miếng…; “Hỏa” là lửa, là chất nóng tức là hơi ấm trong người…; “Phong” là gió, là chất hơi, hơi thở ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động…
Chúng ta thử lấy một thí dụ. Khí trời đang ở bên ngoài thì gọi là của cảnh vật. Nếu ta hít vào trong lỗ mũi thời ta gọi cái khí trời ấy là của ta. Vào trong người rồi khí trời sẽ thành thán khí. Những thán khí và các thứ hơi đang ở trong phổi ta cho là của ta. Nhưng khi ta thở ra khỏi mũi thời các khí đó đã là cảnh ngoài. Nếu cây cỏ hút lấy thán khí đó thì lại gọi là của cây cỏ rồi. Nói rộng ra thời những chất lỏng, chất nóng và chất cứng trong thân thể con người cũng đều như vậy cả. Thoạt gọi là của ta, rồi sau đó lần lượt thành ra của cảnh hay của vật. Vậy tại sao lại nhất định nhận nó là của ta, và gọi nó là cái “ta”? Vả chăng nếu cả bốn chất “tứ đại” đó rời nhau ra và mỗi thứ trở về mỗi loại của nó trong vũ trụ thì còn chất gì ở lại để gọi là ta nữa đâu.
Nếu “ta” là tâm linh, là linh hồn thì tâm linh là những tình cảm vui buồn, giận hờn… những ý nghĩ, tưởng tượng, ghi nhớ, những hành động, cử chỉ, phân biệt, hiểu biết… Phật giáo phân tách những thứ ấy ra làm bốn loại gọi là: “Thọ, Tưởng, Hành, Thức”. “Thọ” là đối cảnh bèn sinh ra cảm giác vui sướng hoặc buồn khổ…; “Tưởng” là đối cảnh bèn nhận ra sự đen trắng, to nhỏ, nam nữ…; “Hành” là đối cảnh vật đem lòng ham muốn hoặc ghét giận…; “Thức” là đối cảnh bèn hiểu biết phân biệt sự vật. Dù phải tổng hợp bấy nhiêu thứ lại để thành cái ta, nhưng có hợp thì có tan. Khi tan thời chẳng còn thứ gì ở lại để làm “ta” nữa.
Trong “xác thân” và “tâm linh” đều không có “ta”. Vậy nếu có hợp cả hai thứ đó lại, tức là “sắc” hợp với “thọ, tưởng, hành, thức” (trong Phật học gọi là thân “ngũ uẩn” hay “ngũ ấm”) thì thân ấy khi phân tách ra, vẫn không có chất “ta” nào riêng biệt cả. “Ngũ” là năm, “uẩn” là chứa nhóm, “ấm” là che lấp. Thân này chứa nhóm tật bệnh, già, ch*t, si mê, phiền não, nó che lấp chân lý, làm cho con người không nhận rõ được “Tâm” thật, “Tính” thật của mình.
Đức phật dạy rằng các vật không có chất gì riêng biệt của nó, để làm thành một cái “ta” riêng cho nó. nó chỉ là những hợp tướng tạm thời của nhiều phần tử “duyên” lại với nhau. lúc nào duyên hết thì hợp tướng phải tan. đó là định luật vô thường và lẽ thật vô ngã của tất cả mọi vật trong vũ trụ. những hiện tượng trong đó có con người, bày ra và hoạt động trong vũ trụ đều là tạm thời và đều là giả, là vọng. hiểu rõ như thế con người sẽ không vì những cái giả và tạm thời như xác thân, tiền tài, cảnh vật… mà say mê, luyến tiếc, ghen ghét và tham lam, rồi tạo ra các tội lỗi, ác nghiệp, là những nguyên nhân sinh ra đau khổ, quả báo, luân hồi.
Truyện tích kể rằng người kia giàu có nhưng keo kiết. Ông có năm hũ vàng chôn giấu trong nhà nhưng không cho con biết. Ðến lúc ch*t, ông ta tái sinh làm một người ăn xin có hình tướng xấu xa. Ngày nọ, tình cờ ông đi đến cái nhà của ông trong kiếp sống trước, nhưng khi bước vào thì bị con và người nhà cột trói lại và vứt trên một đống rác. Ðức Phật đi ngang qua thấy vậy mới lưu ý người chủ nhà rằng ông kia chính là cha của anh trong kiếp trước. Anh không tin. Đến khi được biết chuyện năm hũ vàng, anh về nhà đào lên thấy đúng. Đức Phật chỉ rõ cho thấy rằng kẻ cuồng si trong cuộc đời cứ lo nghĩ về cái “ta” giả tạo mãi, không biết rằng chính mình cũng không phải là của mình nữa huống chi là con cái, là tài sản của mình:
Những hiện tượng, những cảnh vật ở thế gian mà mắt phàm phu chúng ta trông thấy đều là giả, không đúng với hình tướng của hiện tượng thật, cảnh vật thật mà mắt sáng suốt của chư Phật trông thấy. Chúng sinh là người mê, chỉ trông thấy hình dáng giả của đời và của vũ trụ. Phật là người thức tỉnh nên Phật trông thấy hình dáng thật, bộ mặt thật của đời và vạn vật vũ trụ.
Thí dụ như trong một căn phòng tối tăm, một người trông thấy một con rắn to nằm uốn khúc cuộn tròn. Người ấy hốt hoảng, vội vàng kêu la cầu cứu. Nhưng đến khi thắp đèn sáng lên thì con rắn to ghê sợ ấy chỉ là một cuộn dây thừng. Thế ra người ấy kinh hoảng vì đã không nhìn thấy vật thật là cuộn dây, mà chỉ nhìn thấy vật giả và tưởng là con rắn.
Cũng vậy, một phương ngôn bên Ấn Độ nói: “Khi thấy chó thì không có đá; khi thấy đá thì không có chó.” Trong lúc tối tăm, mê mờ, người ta trông thấy hình dáng một con chó ngồi trong xó cửa sắp nhảy ra cắn mình nên sinh tâm sợ hãi. Lúc sáng sủa, nhận rõ là hòn đá thì con chó ghê gớm lúc trước tự nhiên biến mất không còn nữa.
Nhân một dịp nọ Ðức Phật nhận thấy các thầy Tỳ kheo hành thiền với đề mục “vô ngã”, Ngài khuyên các thầy nên tiếp tục, nên sáng suốt nhận thức phân biệt điều này và nhàm lìa thống khổ, phiền não mà theo con đường trong sạch:
Vợ chồng một người Bà La Môn đang ăn sáng. Đức Phật đến khất thực. Người vợ đứng che đi chẳng cho chồng thấy Đức Phật. Nhưng chồng biết được và đem cúng dường Ngài. Ông bạch hỏi Ðức Phật những điều gì làm nên đặc tính của một thầy Tỳ kheo. Ðức Phật mô tả vắn tắt rằng “Tỳ kheo là người không bị ràng buộc bởi những gì thuộc về tâm hay thân. Thân này gọi là sắc. Tâm này gọi là danh. Vị Tỳ kheo xứng danh chẳng hề mê luyến danh sắc. Không còn luyến ái, không thắc mắc lo âu về những gì mình không có”:
Con người, vì không thấy rõ được sự thật, không nhận biết được sự giả hợp của ngũ uẩn tạo thành tấm thân của mình nên ngay từ lúc lọt lòng mẹ, một cái tên gọi cùng với nhận thức sai lầm về cái “ta” đã tạo thành một ngộ nhận căn bản về sự hiện hữu và giá trị của một con người. Từ đó, tính “chấp thật” và sự ích kỷ hình thành. Đây chính là giềng mối của bao nỗi thống khổ mà chúng ta đã cưu mang suốt cả kiếp người. Chính ảo mộng về một cái “ta” và những cái “của ta” đã đưa đến hận thù giữa các cá nhân, các đoàn thể, đưa tới thảm trạng chiến tranh giữa các quốc gia.
Tất cả đều không có “ta”, đều “vô ngã”. bản chất thực của tấm thân chúng ta đang mang giữ giữa cuộc đời này rất mong manh, luôn biến chuyển. khi cái “ta” đã không còn thì dục vọng còn dựa vào đâu để đòi hỏi cho cái “ta” riêng biệt. khi biên giới thành trì ngăn cách giữa mình và người được san phẳng thời sự tranh chấp sẽ không còn, bức tường thành của sự ích kỷ hẹp hòi thực sự sụp đổ, ranh giới của chủ nghĩa cá nhân bị xóa nhòa, lòng bao dung vị tha sẽ bừng sáng, nhân loại xích lại gần nhau. mình và người sẽ giao hòa trong một biển sống mênh mông không bờ lũy, không ngần ngại nắm chặt tay nhau cùng chung sức xây dựng một nền hòa bình vĩnh cửu và hạnh phúc chân thật hiện hữu ngay trên quả đất này. đạo lý vô ngã của phật giáo là động cơ thúc đẩy con người dũng tiến trong công việc phụng sự nhân loại.