Tỳ kheo sống nơi tĩnh mịch thời tâm yên tịnh. Hiểu rõ chánh pháp thì sẽ hưởng được niềm vui cao thượng hơn các niềm vui của người trần thế:
Người suy niệm biết rõ lẽ sinh và diệt của “ngũ uẩn”, của năm nguyên tố hòa hợp lại tạo thành thân và tâm con người, thì sẽ hình dung được niềm vui và hạnh phúc của những người đã thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi:
Tỳ kheo có trí tuệ phải lo chế ngự lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), tự biết đủ, nghiêm trì giới luật, giao thiệp với những người có đức hạnh, trong sạch và chuyên cần. Phải chân thành thân thiện, đoan chính, thanh cao. Tỳ kheo đó sẽ dứt sạch phiền não, có nhiều niềm vui:
Năm trăm vị Tỳ kheo đi vào rừng vắng tu tập thiền định. Nơi đây các vị đó quan sát những cánh hoa lài nở tươi đẹp vào buổi sáng rồi đến chiều thì tàn úa rơi xuống đất. Các vị đó suy niệm và nung chí lên, chuyên cần hành thiền. Ðức Phật biết vậy, rọi hình ảnh Ngài trước mặt các thầy và dạy “Này các Tỳ kheo! Hãy dứt bỏ trọn vẹn tham, sân, như bông lài buông rơi những cánh hoa tàn”:
Thuở ấy có một thầy Tỳ kheo ở chùa Kỳ Viên rất an tịnh, nhàn nhã. Tính tình trầm tĩnh, đi đứng nghiêm trang, thường ngồi, nằm nơi vắng vẻ, ít nói, ít tiếp chuyện với bạn đồng tu. Tác phong tự tại của thầy làm mọi người lưu ý. Mọi người mới đến thưa trình cùng Đức Phật. Ðức Phật cho biết kiếp trước thầy Tỳ kheo này là một con sư tử chúa, dáng điệu rất oai vệ, săn được mồi, ăn xong liền nằm im lặng lẽ. Ngài dạy các Tỳ kheo nên noi theo gương đó:
Một Tỳ kheo say mê phẩm hạnh của Ðức Phật, cứ mãi ngồi chiêm ngưỡng dung nhan Ngài. Ðức Phật khuyên Thầy không nên làm vậy và dạy rằng người nào thấy giáo pháp tức là thấy Phật. Thầy bất mãn, trèo lên một tảng đá, toan từ đó nhảy xuống quyên sinh, Ðức Phật thấy vậy xuất hiện trước mặt thầy. Gặp Ðức Phật, thầy vượt qua cơn sầu và cảm thấy hoan hỷ. Nhân cơ hội Ðức Phật đọc lên câu kệ sau đây. Thầy cố gắng hành thiền và về sau đắc quả A La Hán:
Ðức Phật tuyên ngôn những lời sau đây khi tán dương một thầy Tỳ kheo trẻ tuổi có nhiều oai lực thần thông:
Ðức phật không quên nhắc nhở các vị sa môn xuất gia, phải biết tôn trọng áo cà sa và gìn giữ giới hạnh. ðức mục kiền liên thấy một con quỷ đói có hình dáng như một bộ xương khô. lần khác thấy những con quỷ hình dáng sa môn đang phừng phừng bốc cháy. ngài về trình lại cho đức phật nghe. ngài giải thích rằng đó là các tăng sĩ ô nhiễm trong kiếp sống ở quá khứ nay chịu hậu quả này:
Một Tỳ kheo vô ý cắt đứt một nắm cỏ, phạm vào giới luật cấm đốn cây. Tuy đã theo đúng thủ tục thú tội với bạn đồng tu nhưng trong tâm tu sĩ đó vẫn còn thắc mắc. Một Tỳ kheo khác khuyên rằng đó là giới cấm nhỏ, không đáng để ý, vị này có tính ngang nhiên tự phụ nên khuyên xong bèn tự mình cúi xuống nhổ một nắm cỏ, coi đó là việc tầm thường. Ðức Phật dạy là chớ lơ là trong việc giữ gìn giới luật. Tương tự như lá cỏ sắc bén tựa lưỡi dao, nếu chẳng khéo cầm giữ sẽ bị đứt tay. Kẻ tu hành mà không giữ giới hạnh nghiêm túc sẽ bị sa vào địa ngục. Theo tà hạnh sẽ đưa đến đau khổ:
Gặp việc đáng làm thì phải làm cho tận tâm. Tu hành mà không giữ giới cho nghiêm túc, thì sẽ bị lục trần và dục vọng lôi cuốn vào đường tội lỗi. Đức Phật dạy:
Sau khi đã tìm hiểu một số lời dạy của đức phật với chư tăng, ni, chúng ta đã hình dung ra được phần nào nếp sống chân chính của những người đang khoác trên mình màu áo cà sa khả kính. trở lại với chính hình ảnh của đức phật từ thuở xa xưa, chúng ta thấy trên mọi nẻo đường khất thực và hoằng hóa, ngài luôn luôn đi chân không và đi bộ với bình bát trên tay. giản dị chỉ có thế. dung dị trong bộ áo cà sa, trong tấm y vàng có những lúc chỉ là y phấn tảo. tấm lót ngồi làm bằng cỏ khô đan lại. có những lúc ngài trú mưa qua một đêm trong một chái nhà lá của thợ làm đồ gốm một mình. ngài sinh ra dưới cội cây, và nhập niết bàn cũng dưới cội cây, chỉ đơn giản nằm nghiêng trên chiếc võng dây treo giữa hai cây ta la song đôi. cuộc sống dung dị nhưng thơ mộng biết bao! đẹp đẽ biết bao! xúc cảm biết bao! chính những hình ảnh, những nét vẽ dung dị đó là những hào quang tối thượng và kỳ diệu nhất để cho chúng ta chiêm ngưỡng. nội dung giáo hoá của đức phật vẫn luôn là giới, định, tuệ qua thân giáo và khẩu giáo.
Cần nhấn mạnh lại ở đây rằng đức phật đã định rõ giá trị lý tưởng của một người tu xuất gia phải căn cứ vào cá tính và thái độ, hơn là vào hình dáng, hơn là vào bộ áo cà sa mà quý vị đó đang khoác bên ngoài.
Chủ đề liên quan:
Áo cà sa Kinh pháp cú Màu áo cà sa Màu áo cà sa trong kinh Pháp Cú Ý nghĩa áo cà sa