Tâm linh hôm nay

Vua Trần Nhân Tông và cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1288

Ngày mùng 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), vua Trần Nhân Tông khải hoàn về thủ đô Thăng Long. Chưa đầy hai tháng sau tức ngày 20 tháng 7, khi tập hợp được tất cả các báo cáo về cuộc chiến tranh vừa qua, Hốt Tất Liệt thông qua Khu mật viện ra lệnh bổ sung quân cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha tiến hành cuộc chiến tranh thứ hai.

Bản kỷ của Nguyên sử tờ 10a13-b4 viết: “(Chí Nguyên năm 22 tháng 7) ngày Canh Dần, khu mật viện nói quân do Trấn Nam Vương Thoát Hoan tổng chỉ huy để đi đánh Giao Chỉ, do đánh lâu sức mệt, xin chia lấy 1.000 quân Mông Cổ trong 3 vạn hộ của bọn Áo Lỗ Xích (Agurug?i) và phân lấy 4.000 người quân Hán và tân phụ từ ba hành viện Giang Hoài, Giang Tây và Kinh Hồ, chọn tướng giỏi chỉ huy, lấy Trấn Nam Vương Thoát Hoan và A Lý Hải Nha làm tiếp chế. Vua nghe theo. Lại lấy Đường Ngột Đãi làm tả thừa kinh hồ hành tỉnh. Đường Ngột Đãi xin thả quân đi đánh Giao Chỉ về nhà nghỉ ngơi. Vua xuống chiếu đồng ý, cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha xử lý”.

Tháng 9 ngày Canh Dần, Hốt Tất Liệt cho tiến hành một đợt tuyển quân nữa. Kết quả, như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 11a8-10, là “các quân đánh Giao Chỉ, trừ 100 quân Mông Cổ và 400 quân Hán lưu lại làm túc vệ cho Trấn nam vương Thoát Hoan, còn lại bao nhiêu đều cho về nhà, riêng lấy Giang Hoài hành khu mật viện tổng chỉ huy quân Mông Cổ đóng ở Giang Tây”. Rồi tới tháng 10, Hốt Tất Liệt gửi Hợp Tản Nhi Hải Nha (Qasar Qaya), tên đã từng làm chánh và phó đạt lỗ hoa xích (daruga?i) tại nước ta vào những năm 1273-1275, đến Đại Việt để thăm dò tình hình (Nguyên sử, Bản kỷ 13 tờ 11a12-13). Cũng trong tháng này, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a12-13 cho biết khu mật viện xin điều quân tập trung đến Đàm Châu giao cho Trấn Nam Vương và A Lý Hải Nha chọn tướng chỉ huy.

Tháng giêng năm sau (1286) cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a13-b3, Hốt Tất Liệt ra lệnh cho các đại thần cùng bàn việc đánh Đại Việt, mà Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 1b1-2 chép rõ là “sai bọn A Lý Hải Nha bàn việc đánh An Nam". Việc bàn này, Bản kỷ cũng ghi rõ là xảy ra vào ngày Tân Mão, tức ngày 24 tháng giêng năm Bính Tuất (1286).

Tháng 2 ngày Giáp Thìn, tức ngày mùng 7, Hốt Tất Liệt lại cử “A Lý Hải Nha giữ nguyên chức Tả thừa tướng của An Nam hànhtrung thư tỉnh, Áo Lỗ Xích làm bình chương chính sự đô nguyên soái, Ô Mã Nhi, Diệt Lý (đúng ra phải là Hắc, LMT) Mê Thất (YigmiỊ), A Lý Quỹ Thuần (Ariq Qusun), Phàn Tiếp đều làm tham tri chính sự, rồi gửi sứ đến bảo Hoàng tử Giả Tiên Thiết Mộc Nhi (ấsôn Tômỳr) điều quân Hợp lạt chương một hoặc hai, ba nghìn người, giao cho A Lý Hải Nha theo đánh Giao Chỉ, đồng thời ghi đủ tên họ của tướng sĩ để tâu lên”, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 1b8-10 đã ghi. Qua ngày Đinh Tỡ (20 tháng 2) Hốt Tất Liệt lại ra lệnh “cho Hồ Quảng hành tỉnh đóng 300 hải thuyền để đi đánh Giao Chỉ, kỳ hạn sẽ tập hợp tại châu Khâm và châu Liêm vào tháng 8. Ngày hôm sau sai Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh đem 6 vạn quân của ba hành tỉnh Giang Triết, Hồ Quảng và Giang Tây đi đánh Giao Chỉ. Bình chương của Kinh Hồ hành tỉnh là Áo Lỗ Xích đem việc đánh Giao Chỉ xin vào gặp vua. Vua ra lệnh cho theo ngựa trạm xuống kinh đô”.

Cũng trong ngày 21 tháng 2 ấy, Hốt Tất liệt chính thức phong cho Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, ban cho ấn và phù, Trần Tú Viên làm phụ nghĩa công, như Nguyên sử 14 tờ 2a11 và 209 tờ 8b2 -3 đã ghi. An Nam chí lược 13 tờ 132 còn chép thêm việc Hốt Tất Liệt phong cho một loạt các tên Việt gian khác như con trưởng của Ích Tắc là Bá Ý làm an phủ sứ lộ Đà Giang, Lại Ích Khuy làm An Phú sứ lộ Nam Sách Giang, Trần Văn Lộng làm Tuyên Phủ sứ lộ Quy Hóa Giang v.v... Ợ Thực tế, Hốt Tất Liệt muốn dựng lên một chính phủ bù nhìn nhằm áp đặt lên đất nước ta, khi bọn Thoát Hoan đánh chiếm Đại Việt thành công.

Đồng thời cũng trong tháng 2, Hốt Tất Liệt gửi thư cho quan dân nước ta kể tội vua ta là Trần Nhân Tông về việc dám giết Trần Di Ái và không nhận đạt lỗ hoa xích Bất Nhan Thiết Mộc Nhi (Buyan Tômỳr), và kêu gọi dân ta bình tĩnh làm ăn, trong khi chúng tiến quân đến hỏi tội vua ta, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a13-b2 đã ghi.

Như thế trong hai tháng đầu năm Bính Tuất (1286) Hốt Tất Liệt và triều đình nhà Nguyên ráo riết chuẩn bị mọi phương lược, nhân lực cũng như khí tài để tiến đánh nước ta. Đến tháng tư ngày Canh Tý, tức ngày mồng 4, để tăng cường tiềm lực và khích lệ đám quân Mông Cổ đang lao động sản xuất tại các đồn điền, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh miễn thuế cho các đồn điền có quân Mông Cổ đi đánh Giao Chỉ, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 3a1-2 đã ghi. 12 ngày sau, vào ngày Nhâm Tý, tức ngày 16 tháng tư, Nạp Tốc Lạt Đinh lại “được lệnh đem quân Mông Cổ và Hợp lạt chương 1000 người cùng những tướng giỏi đến Giao Chỉ để giúp Hoàng tử Thoát Hoan”.

Cũng trong tháng 4 này, khi Áo Lỗ Xích về đến Đại Đô ra mắt Hốt Tất Liệt để bàn việc xâm lược Đại Việt, Hốt Tất Liệt đã động viên Ao Lỗ Xích với những lời: “Ngày trước bọn Mộc Hoa Lê (Muqali) tận lực với vương thất, tiếng thơm đến nay bất hủ. Khanh cố gắng lên, há lại không vẻ vang như người xưa hay sao!”, như Áo Lỗ Xích truyện của Nguyên sử 131 tờ 17a2 đã ghi. Đồng thời, để tỏ sự ưu ái, Hốt Tât Liệt còn phong cho con của Áo Lỗ Xích là Thoát Hoàn Bất Hoa (Togan Buqa) chức vạn hộ. Áo Lỗ Xích được chú ý như thế, bởi vì sức khỏe của A Lý Hải Nha, sau đợt viễn chinh Đại Việt, đã tỏ ra sút kém. Đến ngày 25 tháng 5 năm Bính Tuất (1286) A Lý Hải Nha đã ch*t, như Hồ Quảng hành tỉnh tả thừa tướng thần đạo bi trong Nguyên văn loại 82 tờ 24b2 đã cho biết.

Đến tháng 6 ngày Tân Hợi, tức ngày 16, Hốt Tất Liệt còn gửi Diệp Mã Lạt (đúng ra là Lạt Ma, LMTư) Đan (Iramadan) đi sứ nước ta. Nhưng chỉ 2 ngày sau, tức ngày Quý Sửu, Tuyến Ca (Sôngô) của Hồ Quảng hành tỉnh đã phàn nàn về việc hành tỉnh phải giao nộp 2 vạn 8 ngàn 700 quân tập hợp tại Tỉnh Giang của Quảng Tây ngày nay để đi đánh Giao Chỉ, số tinh nhuệ đã đưa đi hết, số còn lại 1 vạn 7 ngàn 800 quân thì đều ốm bệnh không thể dùng được, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 4a6-8 đã ghi. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8b10 -12 còn chép rõ quan điểm của Tuyến Ca hơn nữa.

Thứ nhất, Tuyến Ca đồng ý với báo cáo của Hồ Nam tuyên úy ty về tình cảnh khốn khổ của quân đội và dân chúng sau những năm liên tiếp đi chinh phạt Nhật Bản và Chiêm Thành. Thứ hai, việc tiến đánh Giao Chỉ chưa cần thiết, vì nó không đáng giá và vì Giao Chỉ xưa nay vẫn triều cống bình thường. Nếu muốn đánh thì đợi một dịp khác thuận lợi hơn. Chính đây là quan điểm của Tuyến Ca. Khu mật viện đem tâu lên. Thêm vào đó, tại chính quyền trung ương, Thượng thư bộ Lễ là Lưu Tuyên lại cũng nêu những lý do tương tự, để đề nghị hoãn việc tiến đánh Đại Việt, như Lưu Tuyên truyện của Nguyên sử 168 tờ 8a1-10 đã chép.

Dưới áp lực của những lời đề nghị này, Hốt Tất Liệt bất đắc dĩ đồng ý, ra lệnh cho tạm thời hoãn cuộc tiến quân.

Trần Ích Tắc lại lủi thủi trở về lại Ngạc Châu, nơi đóng đại bản doanh của Thoát Hoan, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a1 đã ghi. Tuy nhiên, Hốt Tất Liệt không bao giờ rời bỏ dã tâm xâm lược Đại Việt. Cho nên, chỉ 5 tháng sau, vào ngày Ất Mão tháng 10, Hốt Tất Liệt đã cấp cho Thoát Hoan 4.000 con ngựa. Rồi tháng 11 ngày Kỷ Tỡ thành lập Chinh Giao Chỉ hành tỉnh, tức cơ quan chuyên trách về việc xâm lược Đại Việt, và giao cho A Bát Xích (Aba?i) làm hữu thừa, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 5b 12 -13 và 6a 6 -7 đã chép. Cùng với việc thành lập Chinh Giao Chỉ hành tỉnh vừa nói, Hốt Tất Liệt lại lôi con bài Trần Ích Tắc ra. Ngày Bính Thìn tháng 12, Hốt Tất Liệt đã ban tiền cho Trần Ích Tắc.

Qua tháng giêng năm Đinh Hợi (1287), Hốt Tất Liệt càng ráo riết tổ chức các hoạt động chuẩn bị xâm lược. Trước hết ngày Đinh Hợi, lấy quân Tân phụ 1 ngàn người cho theo A Bát Xích đến An Nam. Qua ngày Tân Mão, đưa quân Mông Cổ và Hán khoản thuộc 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây và Hồ Quảng 7 vạn người với 5 trăm chiếc thuyền cùng với 6 ngàn quân Vân Nam cùng 1 vạn 5 trăm ngàn quân Lê của 4 châu ở ngoài biển. Về vận chuyển lương đường biển thì giao cho Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn và Đào Đại Minh phụ trách vận chuyển 17 vạn thạch lương chia đường mà tiến. Và để danh chánh ngôn thuận cùng tăng thêm tính chất quan trọng cho cơ quan đầu não tiến hành xâm lược Đại Việt, Chinh Giao Chỉ hành tỉnh đã được đổi thành Chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh, giao Áo Lỗ Xích làm bình chương chính sự, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp làm tham tri chính sự, nắm hết mọi quyền. Đồng thờI giao cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan làm tiết chế.

Thế là bộ máy xâm lược đã bắt đầu hoạt động do Thoát Hoan và Ao Lỗ Xích đứng đầu với trong tay hơn 90 nghìn quân. An Nam chí lược 4 tờ 55 còn nói đến sự hiện diện của các binh sĩ thuộc dân tộc thiểu số Quảng Tây, mà nó gọi là Quảng Tây động binh. Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133 tờ 9b có ghi việc Tích Đô Nhi (Ơiktur) chỉ huy động quân theo Thoát Hoan đánh Giao Chỉ vào tháng 7 năm Chí Nguyên thứ 24 (1287). Thế là trong đợt xâm lược này, bọn Thoát Hoan có trong tay trên 100 ngàn quân và được tổ chức khá kỹ càng cả thủy lẫn bộ cùng việc vận chuyển lương thực.

Đó là những chuẩn bị cho cuộc chiến tranh năm 1288 về phía địch. Còn về phía ta, vua Trần Nhân Tông và bộ chỉ huy tối cao của dân tộc thời bấy giờ đã làm gì?

Những chuẩn bị về phía Đại Việt

Ngày mồng 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285) khi vua Trần Nhân Tông vừa khải hoàn trở về Thăng Long, thì một trong những công việc đầu tiên mà nhà vua làm và ĐVSKTT 5 tờ 50b1-2 ghi lại, là “sai trung phẩm phụng ngự Đặng Du Chi đưa bọn tể thần của Chiêm Thành là Bà Lậu Kê Na Liên cọng 30 người về nước, vì đi theo Toa Đô mà bị bắt”.

Đó rõ ràng thể hiện một bước đi ngoại giao, nhằm ổn định và thiết lập quan hệ hữu nghị tốt lành với nước láng giềng phía Nam, mà trong gần 10 năm kể từ khi lên ngôi vua Trần Nhân Tông đã ra sức vun đắp và bồi dưỡng. Đây là một chiến lược ngoại giao lâu dài và nhất quán, đã đem đến hoa tươi trái ngọt cho quốc gia Đại Việt, mà đỉnh cao là việc mở rộng biên cương lên tới trên 200 cây số, khi hai châu Ô Mã và Việt Lý đã trở thành một bộ phận không thể phân ly của tổ quốc vào năm 1306 sau này.

Tiếp theo là công tác phong thưởng cho người có công với nước và trừng trị những kẻ có tội đầu hàng giặc. Việc này, ĐVSKTT 5 tờ 50b3-4 chép: “Mùa thu tháng 8, sai tả bộc xạ Khương Cương Giới tuyên phong các công thần theo thứ bậc khác nhau và trị tội những kẻ đầu hàng giặc”. Như thế ngay việc phong thưởng để khích lệ công thần và quân sĩ cũng như việc trừng phạt những kẻ có tội đầu hàng giặc để làm gương răn đe vẫn được đặt lui vào một thời gian sau.

Sự chậm chạp này có thể xuất phát từ yêu cầu thiết lập hồ sơ đòi hỏi phải có chứng cớ, đặc biệt đối với những người có công cũng như kẻ có tội.

Đối với những người có công lớn như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung, Điện Tiền Phạm Ngũ Lão v.v... tất nhiên việc thưởng công tỏ ra dễ dàng. Nhưng còn đối với những người ở những địa phương khác nhau và ở cấp thấp hơn thì vấn đề không phải dễ dàng. Văn bia chùa Hưng Phúc tìm được ở Thanh Hóa cho ta một ví dụ điển hình. Nó kể việc Lê Công Mạnh cùng anh em bà con và người trong hương An Duyên đã chặn đánh quân Toa Đô ở tại bến Cổ Bút. Bia viết: “Khoảng năm Thiệu Bảo, giặc Hồ trở xuống phương Nam. Hữu tướng giặc là Toa Đô tiến quân theo đường biển, đi tắt qua ngõ Cổ Khê bằng con đường của hương An Duyên này. Ông đem người trong hương chặn ở bến Cổ Bút, cùng đánh nhau với giặc. Giặc cơ hồ không rút chạy được. Nhưng vì có kẻ gian trong hương hàng giặc chỉ đường, nên nhà cửa ông bị đốt phá, công việc xây chùa không thành. Đến khi giặc lui, nhà vua trở lại kinh đô, ông đem việc tâu lên. Vua xuống chiếu tra xét, rồi lấy sản vật trong hương bồi thường cho ông, để khuyến khích người trung cần, nêu rõ công sức của ông vậy”.

Đây chỉ là một thí dụ của những người có công đánh giặc, và sử sách không chép tới. Nhưng nhờ công đức làm chùa, mà bia chùa ghi lại, ta ngày nay mới biết chút ít về những hình thức phong thưởng công trạng đối với những vị có cống hiến, dù lớn hay nhỏ, trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285. Đó là đối với những người còn sống.

Còn đối với những người đã ch*t và gia đình họ, ngày nay ta chỉ có một số thông tin giới hạn, chủ yếu thuộc về các thành phần ưu tú nổi bật. Chẳng hạn, khi anh hùng Trần Bình Trọng hy sinh, vua Trần Nhân Tông đã vật vã thương khóc, như Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 37a2 đã ghi lại. Còn lúc anh hùng Trần Quốc Toản hy sinh tại chiến trường Như Nguyệt, vua Trần Nhân Tông đã làm bài văn tế, tỏ lòng vô cùng thương tiếc người bề tôi anh dũng kiên cường của mình.

Về phía những kẻ có tội đầu hàng giặc thì chắc chắn họ đã bị kết tội cũng với đầy đủ chứng cớ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đối với những kẻ có tội này, chỉ gần một tháng sau, vào tháng 9, khi đổi niên hiệu thành Trùng Hưng, vua Trần Nhân Tông đã ra lệnh đại xá cho cả thiên hạ. Đợt đại xá này, dù không tha hết những kẻ vừa kết tội trong tháng 8, song có phần chắc là một số lớn họ đã hưởng được ân xá. Đây là hai bước đi nhằm ổn định lòng dân, làm phấn khởi những người đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua cho tổ quốc, đồng thời cũng xóa đi những mặc cảm tội lỗi của những kẻ phản bội đầu hàng. Ranh giới phân cách trong dân tộc và sự chia rẽ tâm lý giữa những người cùng chung huyết thống được xóa nhòa.

Thứ ba, vua cho tiến hành một cuộc điều tra, để nắm được tiềm lực của dân tộc, nhằm đối phó với nguy cơ chiến tranh mà kẻ thù đang cố tình thực hiện. ĐVSKTT 5 tờ 48b cho biết: “Mùa đông tháng 10 xuống chiếu bình hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân đang lao khổ, việc sửa định hộ khẩu không phải là việc cần làm ngay. Vua nói:

‘Chỉ có lúc này mới nên sửa định hộ khẩu. Đừng để cho kẻ địch dòm thấy dân ta điêu hao’. Bầy tôi đều khen phục”.

Như vậy, cuộc điều tra khi mới được vua Trần Nhân Tông đề ra đã gặp sự không đồng tình của triều thần. Nhưng sau đó, do được giải thích về ý đồ và ý nghĩa cũng như mục đích cuộc điều tra, họ đã tán đồng và tiến hành nhanh chóng. Mục đích và ý nghĩa cuộc điều tra rõ ràng là nhằm nắm vững tiềm lực như đã nói. Yêu cầu là phải nhanh chóng thực hiện trong một thời gian nhất định, để đáp ứng đòi hỏi chuẩn bị chiến tranh.

Thế là 6 tháng sau khi quét sạch quân thù ra khỏi đất nước, vua Trần Nhân Tông đã thực hiện một số biện pháp nội trị và ngoại giao nhằm ổn định và nâng cao tiềm lực chiến đấu của dân tộc. Bước qua năm sau, trong khi quân dân Đại Việt tưng bừng tổ chức lễ tết năm Bính Tuất, mà tết năm Ất Dậu họ đã không có dịp ăn mừng vì phải dồn sức chiến đấu với đội quân xâm lược Thoát Hoan, thì việc đầu tiên vua Trần Nhân Tông làm mà ĐVSKTT 5 tờ 50b9 đã ghi lại là “Mùa xuân tháng giêng, thả quân Nguyên về nước”. Số quân Nguyên này là do quân ta bắt được trong các chiến dịch khác nhau, đặc biệt là chiến dịch Tây Kết do chính vua Trần Nhân Tông chỉ huy và bắt được trên 5 vạn quân giặc. Đây rõ ràng thể hiện chính sách nhân đạo và tấm lòng hiếu sinh từ bi của một chính quyền từ vua cho tới quan và các tướng lĩnh cao cấp nhất đều là những phật tử.

Song mặt khác, hành động ấy cũng biểu lộ một chính sách ngoại giao mềm dẻo, cố gắng tránh mọi nguy cơ đưa đến chiến tranh và phát huy hết sức mọi vận hội cho việc củng cố một nền hòa bình lâu dài. Trước mắt, việc thả những tù binh này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ ngoại giao của nước ta và nhà Nguyên. Sự thật, sau khi thả tù binh Nguyên về vào tháng giêng, theo ĐVSKTT, 5 tờ 51a1, thì “tháng 2 nhà Nguyên sai Hợp Tản Nhi Hải Nha đến nước ta”. Dù nội dung của sứ bộ Hợp Tản Nhi Hải Nha (Qasar Qaya) là đến thăm dò tình hình đất nước ta, và được cử đi từ tháng 10 năm trước, nhưng khi đến nước ta chắc chắn chúng có nêu lên vấn đề trả lại tù binh Nguyên cho chúng, ngay cả khi chúng ta đã thả đám tù này từ tháng giêng. Dẫu trước hay sau, việc thả tù binh Nguyên nhất định có một tác động chính trị trong một chừng mực nào đó.

Tuy vậy, do việc nhà Nguyên ráo riết tiến hành tổ chức chiến tranh, thì tin tức về các hoạt động này thế nào cũng đến tai người lãnh đạo Đại Việt, nên tháng 3 năm Bính Tuất đã được ĐVSKTT 5 tờ 51a1-5 ghi lại như sau: “Tháng 3 vua Nguyên sắc cho thượng thư sảnh Áo Lỗ Xích, bình chương sự Ô Mã Nhi, đại tướng Trương Văn Hổ điều động 50 vạn quân, sai Hồ Quảng làm 300 chiếc thuyền đi biển, hẹn đến tháng 8, họp cả ở châu Khâm và châu Liêm, sai đem quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng và Giang Tây xâm lấn phương Nam, mượn cớ đưa kẻ đầu hàng Trần Ích Tắc về nước. lập làm An Nam quốc vương”. Thông tin về các hoạt động tổ chức chiến tranh của Hốt Tất Liệt, như vậy, đã được vua Trần Nhân Tông và triều đình Đại Việt nắm vững.

Đứng trước những nguy cơ chiến tranh tới gần, tất nhiên Đại Việt không thể ngồi yên hay đứng nhìn. Việc đầu tiên vua Trần Nhân Tông làm là “vào tháng 6 sai các vương hầu tôn thất mộ binh và nắm vững quân thuộc hạ của mình”, như ĐVSKTT 5 tờ 51a5-6 đã ghi. Tiếp đến, cũng theo ĐVSKTT 5 tờ 51a6-b2, trong một cuộc hội nghị cao cấp nhất, vua đã hỏi Trần Hưng Đạo: “Thế giặc năm nay thế nào?”. Trần Hưng Đạo trả lời: “Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh, nên năm trước quân Nguyên xâm lấn, hoặc có người đầu hàng trốn tránh. Nhờ uy binh của tổ tông và thần vũ của bệ hạ, mà đã quét sạch được rợ Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc đánh dẹp, mà quân nó thì ngại việc đi xa. Vả lại, nó đã cạch về sự thất bại của Hằng và Quán, nên quân Nguyên không có lòng chiến đấu nữa. Cứ ý thần xem, thì tất đánh tan được chúng”.

Qua phân tích của chính Hưng Đạo Vương về sự tất thắng của quân đội ta trong cuộc chiến tranh sắp tới, ta thấy toát lên một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân dân Đại Việt và sự lãnh đạo sáng suốt của các vị vua Trần trong đó có vua Trần Nhân Tông. Một lần nữa, vua Trần Nhân Tông “sai Hưng Đạo Vương tổng đốc các vương hầu quân tôn thất điều động quân đội và chế tạo khí giới thuyền bè. Đến tháng 10 cho kiểm điểm và luyện tập các quân đã điều động”, như ĐVSKTT 5 tờ 51b1-3 đã ghi lại. Thế là về phía Đại Việt, ta cũng đã ráo riết chuẩn bị phương tiện, nhân lực và khí tài để đối phó với bóng ma chiến tranh đang đe dọa phủ lấy đất nước mình với niềm tự tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng.

Bước qua năm Đinh Hợi (1287) niềm tin ấy càng được cũng cố bền vững hơn. Theo ĐVSKTT 5 tờ 52a2-3, “tháng 2,(..) có quan chấp chính xin tuyển người mạnh khỏe làm lính để tăng số quân. Hưng Đạo Vương đã bác đi, nói:

‘Quân cần tinh, không cần nhiều. Dù nhiều đến như Bồ Kiên có 100 vạn quân, có làm gì được đâu?”. Song song với việc không đôn quân bắt lính ấy, vua Trần Nhân Tông còn “đại xá cho thiên hạ”, thể hiện chính sách ổn định lòng dân. Đợt đại xá này chỉ cách đợt trước chưa đầy nửa năm, chắc chắn được khẩn trương thực hiện, nhằm biểu thị không chỉ tính nhân đạo của chế độ mình, mà còn ít nhiều bộc lộ cảm thức trách nhiệm của người lãnh đạo đối với muôn dân. Nếu người dân phạm tội thì không chỉ người dân chịu trách nhiệm trước tội lỗi của mình, mà chính quyền, cụ thể là người lãnh đạo tối cao, cũng phải có trách nhiệm trước những vi phạm và tội lỗi ấy của người dân.

Người dân Đại Việt vào thời Trần Nhân Tông, trước khi xảy ra cuộc chiến tranh 1285, đã được răn dạy: “Phàm các quận huyện trong nước, nếu như có giặc ngoài đến, thì phải tử chiến. Hoặc nếu sức địch không lại thì cho phép trốn vào trong núi đầm. Không được đầu hàng”. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b 1-2 đã ghi lại như thế. Vậy mà cũng có người đầu hàng. Trách nhiệm đầu hàng trước nhất vẫn thuộc về kẻ đầu hàng. Tuy nhiên, giống như cách xử sự của ông nội mình là Trần Thái Tông đối với Hoàng Cự Đà trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1258, vua Trần Nhân Tông vẫn cảm thấy trách nhiệm của mình đối với sự đầu hàng của một số tôn thất và dân chúng, khi quân Nguyên xâm lược nước ta vào năm 1285. Chắc chắn vì cảm thức này, mà vua đã cho tiến hành 2 cuộc đại xá chỉ cách nhau có mấy tháng.

Đến tháng 4, vua Trần Nhân Tông đã cho em mình là Tá Thiên Đại Vương Đức Việp giữ quyền tướng quốc và duyệt binh một lần chót. Đồng thời vua cho giải quyết những vụ kiện tụng chưa xử lý xong và quy định các sắc dịch. Đây là những việc làm chạy đua với thời gian trong một đất nước đang có những giây phút hòa bình cuối cùng của mình, để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh đang từng bước từ bên kia biên giới tiến vào quê hương Đại Việt.

Cuộc chiến tranh bắt đầu: Trận Mộc Hoàn

Theo ĐVSKTT 5 tờ 52a6-8: “Ngày 14 (tháng 11 năm Đinh Hợi, 1287) Trịnh Xiển tâu về việc thái tử nhà Nguyên là A Thai đánh vào cửa Phú Lương”. Thực tế thì đây là trận đánh vào cửa Mộc Hoàn do Ái Lỗ chỉ huy, mà Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11a3-5 đã mô tả: “Tháng 11 ngày Nhâm Thìn (...) hữu thừa của Vân Nam tỉnh là Ái Lỗ đem quân đóng ở cửa Mộc Ngột của Giao Chỉ. Tướng Giao Chỉ là Chiêu Văn Vương đem 4 vạn quân trấn giữ. Ái Lỗ đánh phá, bắt được tướng nó là Lê Thạch và Hà Anh”.

Đây là trận mở đầu và do cánh quân Tây Bắc từ Vân Nam xuống của Ái Lỗ tiến hành. Ái Lỗ (Aruq) là một danh tướng của nhà Nguyên. Ái Lỗ truyện của Nguyên sử 122 tờ 8b3-5 sử chép: “(Năm Chí Nguyên thứ 24) Trấn Nam Vương đánh Giao Chỉ, ra lệnh cho Ái Lỗ đem 6 nghìn quân đi theo, từ La La đến đất Giao Chỉ. Tướng Giao Chỉ là Chiêu Văn Vương đem quân bốn vạn giữ cửa Mộc Ngột. Ái Lỗ đánh phá được, bắt tướng nó Lê Thạch và Hà Anh. Trải ba tháng, đánh nhau mười tám trận lớn nhỏ, bèn đến thành vua nó, cùng hội với các quân, lại đánh hơn hai mươi hiệp, công là nhiều”.

Năm sau, vào ngày Quý Mùi tháng 4 năm Chí Nguyên 25 (1288) khi báo cáo trận đánh này lại cho Hốt Tất Liệt ở Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3a5, Ái Lỗ còn viết: “Hữu thừa tỉnh An Nam là Ái Lỗ dâng lời nóirằng từ lúc xuất phát ở Trung Khánh qua La La, Bạch Y vào Giao Chỉ, đi về đánh 38 trận, chém đầu không thể kể xiết, tướng sĩ từ Đô nguyên soái trở xuống, những kẻ có công là 474 người”.

Vậy trận mở đầu này là một trận đánh lớn, dù quân số ít, chỉ 6 nghìn người, nhưng chắc chắn có sự tham gia của nhiều viên chỉ huy giỏi, mà một trong số đó là Mang Cổ Đái. Viên tướng này có một bề dày chiến trận với nhiều thành tích, và Nguyên sử đã dành hẳn một truyện để viết về y ở Nguyên sử 149 tờ 13a6-7. Truyện này không chỉ chép công trạng của Mang Cổ Đái, mà còn sử ghi lại tên một số viên tướng khác như thái tử A Đài, mà ĐVSKTT đã nhắc tới ở trên. Truyện chép Mang Cổ Đái (Mangqudai) “theo chư vương A Đài (Atai) đánh Giao Chỉ, đến sông Bạch Hạc, đánh nhau với ngụy Chiêu Văn Vương của Giao Chỉ, cướp được 87 chiến thuyền”.

An Nam chí lược 4 tờ 54 cũng ghi lại trận này: “Hữu thừa Ái Lỗ cũng từ Vân Nam tiến quân đến Tam Đại Giang, đánh nhau với em vua là Trần Duật, bắt được tướng Hà Anh, Lê Thạch”. Tam Đại Giang nghĩa đen là ba sông lớn.

Thế rõ ràng nó chỉ vùng ba sông Đà, Lô và Hồng gặp nhau ở tại Việt Trì. Chính tại Việt Trì này mà hơn 100 năm sau ĐVSKTT 8 tờ 53b2 -7 đã ghi việc “quân Minh chiếm bờ sông Mộc Hoàn ở Việt Trì” và “tập kích quân Hồ ở châu Moc Hoàn”, trước khi tiến đánh thành Đa Bang. Vậy cứ điểm Mộc Ngột mà các sử liệu Trung Quốc nói tới, chắc chắn là cứ điểm Mộc Hoàn của ĐVSKTT. Tên Mộc Hoàn này đến cuối thế kỷ thứ 19 vẫn tồn tại, như Đồng Khánh địa dư chí đã ghi. Vậy Mộc Ngột cũng chính là Mộc Hoàn, vì chữ hoàn có dạng như chữ ngột.

Trận Mộc Hoàn đây cho thấy, trong đợt xâm lược lần này, Hốt Tất Liệt đã quan tâm đến cánh quân Vân Nam, tăng cường quân số cho nó lên tới 6 nghìn người, bố trí thêm một số tướng giỏi, và chắc chắn phải giao cho chúng một số nhiệm vụ. Sự quan tâm này phản ảnh nỗi lo lắng của Hốt Tất Liệt về việc thiếu vắng cánh quân phía Nam. Để bù đắp cho sự thiếu vắng này, cánh quân Vân Nam đã được tăng cường tiềm lực chiến đấu. Và tên tướng đầu sỏ Ái Lỗ đã hăng hái gánh vác nhiệm vụ của cánh quân phía Nam mà ngày trước Toa Đô đã cố sống cố ch*t thực hiện. Việc tiến đánh cứ điểm Mộc Hoàn trong cụm phòng ngự Phú Lương, mà ĐVSKTT nói đến, đã thể hiện một phần nào chủ trương chiến tranh của Hốt Tất Liệt.

Đối với cuộc chiến tranh đang nổ ra, chủ trương chiến lược của quân dân nhà Trần lần này khác với lần trước. Ngay từ những trận đánh đầu tiên này, khi vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Hưng Đạo, thì được trả lời “năm nay giặc dễ”, như ĐVSKTT 5 tờ 52a6-8 đã ghi. Quân đội nhà Trần ở các mặt trận khác nhau thực hiện các trận đánh rút lui vừa để tiêu hao sinh lực địch vừa để bảo toàn lực lượng ta, vừa chủ động nhữ địch đến những nơi ta muốn, để cuối cùng phản công và tiêu diệt chúng. Cho nên, trận Phú Lương, tuy ta có bị tiêu hao với việc hai tướng Lê Thạch và Hà Anh bị bắt cùng một số chiến thuyền bị cướp, nhưng danh tướng Trần Nhật Duật đã hoàn thành xuất sắc và trung thành chủ trương và nhiệm vụ được giao, rút về và bảo toàn lực lượng.

Thoát Hoan tiến quân

Trong khi Ái Lỗ rầm rộ tiến quân xuống cửa ải Phú Lương ở phía Tây Bắc, thì cánh quân ở phía Đông Bắc do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy đã từ đại bản doanh của mình ở Ngạc Châu kéo nhau xuất phát vào ngày mồng 3 tháng 9 năm Đinh Hợi (1287). Đến ngày 28 Ất Dậu tháng 10 chúng tới huyện Lai Tân của Quảng Tây. Tại đây, Thoát Hoan cho tách quân thủy bộ. Thoát Hoan cùng Áo Lỗ Xích và A Bát Xích đem quân bộ cùng bọn Việt gian Trần Ích Tắc nhắm hướng Tư Minh. Ngày Kỷ Hợi 13 tháng 11 Thoát Hoan và đồng bọn đến Tư Minh. Còn Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp sau khi tách khỏi Thoát Hoan ở Lai Tân đã tiếp tục đi về Khâm Châu.

Tất cả những ghi nhận về ngày tháng vừa nêu chủ yếu lấy từ An Nam chí lược 4 tờ 55. Khi tham khảo thêm Lai A Bát Xích truyện và An Nam truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a2-4 và 209 tờ 9a8, ta thấy hoàn toàn phù hợp. Phàn Tiếp truyện của Nguyên sử 166 tờ 10a10-11 cũng ghi tương tự: “Năm 24 (1287) lại đánh Giao Chỉ, tiến lên làm hành trung thư tỉnh tham tri chính sự. Bấy giờ ba đạo tiến quân. Hoàng tử Trấn Nam Vương cùng hữu thừa Trình Bằng Phi chia làm hai đạo. Một vào Vĩnh Bình, một vào ài Nữ Nhi. Tiếp cùng tham chính Ô Mã Nhi đem quân thủy vào biển”.

Điều này chứng tỏ Lê Thực đã ghi nhật ký của cuộc tiến quân, mà bản thân hắn có tham gia. Và sau này khi bị thua trở về Trung Quốc, hắn đã dùng bản nhật ký ấy để một phần nào viết nên An Nam chí lược. Độ chính xác của tư liệu, do thế, tương đối cao trong liên hệ với các cuộc hành quân của giặc.

Các trận thủy chiến với địch

Thế là để xâm lược nước ta trong đợt này, tuy thiếu cánh quân phía Nam, Hốt Tất Liệt đã bổ sung bằng cách tăng cường cánh quân phía Tây Bắc do Ái Lỗ chỉ huy và tạo mới cánh quân thủy giao cho hai tên phó của Áo Lỗ Xích là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trực tiếp điều động. Theo An Nam chí lược 4 tờ 55 thì việc chia quân xảy ra ngày Ất Dậu 28 tháng 10 năm Đinh Hợi (1285), mà ngoài Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy 18 ngàn quân còn có Ô Vị, Trương Ngọc và Lưu Khuê chỉ huy thêm mấy vạn quân và 500 chiến thuyền cùng 70 chiếc thuyền vận tải.

Ngày Mậu Tuất (đúng ra là ngày 12, LMT) 11 tháng 11, cánh quân thủy này đã tiến trước, vượt qua cửa biển Vạn Ninh, tức Móng Cái ngày nay và chúng bị tướng Nhân Đức Hầu Trần Lang phục kích ở Lãng Sơn, mà theo An Nam chí lược 4 tờ 55 của Lê Thực là có ý cắt đứt với hậu quân của địch. Địch biết, liền đêm đó cho vây núi, mờ sáng thì đánh nhau với ta. Theo chúng, số quân ta bị ch*t đuối lên đến vài trăm người va mất vài chục chiếc thuyền. Ô Mã Nhi thừa thắng tiến lên, không quan tâm đến thuyền chở lương đằng sau. Mất quân hộ tống, thuyền lương bị hãm.

An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a11-12, kể lại trận đánh này như sau: “Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem quân đi bằng đường biển qua cửa đôi núi Ngọc (nguyên bản có vương chắc là sai, LMT) rồi đến cửa An Bang, gặp thuyền của Giao Chỉ hơn 400 chiếc, đánh chúng, chém đầu hơn 4.000 cái, bắt sống hơn trăm tên, cướp thuyền trăm chiếc, bèn đuổi dài Giao Chỉ”. Phàn Tiếp truyện của Nguyên sử 166 tờ 19a11-13 cũng viết tương tự: “Tiếp cùng tham chính Ô Mã Nhi đem quân thủy vào biển, gặp thuyền giặc ở cửa An Bang, Tiếp đánh, chém đầu hơn 4 ngàn cái, bắt sống hơn trăm người, cướp được hơn trăm chiếc thuyền và vô số khí giới”. Văn bia của Lý Thiên Hựu do Tô Thiên Tước viết trong Từ khê văn cảo 18 cũng ghi tương tự: “Đến An Bang, gặp người Giao chém đầu hơn 2 nghìn, bắt được thuyền hơn 60 chiếc”. Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b1-2 chép trận này sớm lắm là vào ngày Tân Sửu của tháng 11 năm Đinh Hợi (1287), nghĩa là sau An Nam chí lược đến 4 ngày: “Ngày Tân Sửu Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và bọn Trình Bằng Phi đến Giao Chỉ. Đến đâu cũng đều thắng cả”.

ĐVSKTT 5 tờ 52b1-3 viết về trận này: “Ngày 28 phán thủ thượng vị Nhân Đức Hầu Toàn đem quân thủy đánh ở vũng Đa Mỗ. Giặc ch*t đuối rất nhiều, bắt được 40 tên, thuyền, ngựa và khí giới đem dâng”. Thế rõ ràng trận thủy chiến Đa Mỗ do Nhân Đức Hầu Toàn chỉ huy cũng là trận Lãng Sơn của An Nam chí lược và trận cửa An Bang cũng chỉ là một mà thôi. Tuy nhiên thời điểm xảy ra đã được ghi khác nhau. An Nam chí lược ghi ngày 11, Nguyên sử ghi ngày 15, còn ĐVSKTT thì ghi ngày 28. Những khác nhau này là do truyền tải tư liệu có sai sót, hoặc thông tin không chính xác. Điểm đáng chú ý hơn nữa là bên nào cũng cho mình thắng trong trận này cả.

Sau những trận đụng độ với cánh quân Tây Bắc do Ao Lỗ chỉ huy và cánh quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp điều khiển, thì cánh quân Thoát Hoan từ Lai Tân đến Tư Minh. Thoát Hoan đã cử A Bát Xích nắm một nghìn quân đi tiên phong, như Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a đã ghi nhận. Tại đây, vào ngày Kỷ Hợi 13 tháng 11 theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11a 12-13, Thoát Hoan đã chia đạo quân của mình thành 2 cánh. Một cánh do Trình Bằng Phi chỉ huy, và một do Ao Lỗ Xích điều khiển để tiến vào nước ta, và tăng cường đội quân của A Bát Xích lên một vạn người, giao A Bát Xích đi tiên phong.

Sự kiện này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a8-11 viết rõ hơn: “Tháng 11, Trấn Nam Vương đến Tư Minh, để lại 2.500 quân, sai Vạn hộ Hạ Chỉ điều khiển để giữ xe lương, còn Trình Bằng Phi và Bột La Hợp Đáp Nhi (Bolqadar) đem khoảng một vạn quân Hán đi đường phía Tây qua ngã Vĩnh Bình, còn Áo Lỗ Xích thì đem một vạn quân theo Trấn Nam Vương do đường ải Nữ Nhi phía đông, để cùng tiến, và A Bát Xích đem một vạn quân đi làm tiên phong”. Ba ngày sau, tức ngày Tân Sửu, theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b1, cánh quân Trình Bằng Phi đã có báo cáo chiến thắng, trong khi An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a12-13 nói thêm: “Trình Bằng Phi và Bột La Hợp Đáp Nhi trải qua 3 cửa ải Lão Thử, Hãm Nê và Tư Trúc đánh nhau 17 trận, đều thắng”

Thoát Hoan tiến vào Đại Việt

Còn đại quân của Thoát Hoan, theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b2-3, 5 ngày sau, vào ngày Bính Ngọ, tức ngày 20 tháng 11, mới đến Giới Hà và bị quân ta chống cự. Đến ngày Canh Tuất 24 tháng 11, quân của Thoát Hoan đến Lộc Châu. Chính tại đây, theo An Nam chí lược 4 tờ 55, Thoát Hoan mới chia quân,“hữu thừa Trình Bằng (Phi), tham chính Bột La Đáp Nhi do ải Chi Lăng, còn đại quân thì do ải Khả Lỡ, hữu thừa A Bát Xích làm tiên phong cùng tiến”. ĐVSKTT 5 tờ 52a8-b1 có chép một trận đánh vào ngày 24 này: “Ngày 24, vua sai cấm quân giữ ải Lãnh Kinh. Hưng Đức Hầu Quán đem quân đón đánh, lấy tên độc bắn giặc, ch*t và bị thương rất nhiều. Giặc lui về đóng ở ải Vũ Cao”.


Vậy là khi tiến vào nước ta, Thoát Hoan đã chia quân theo đường tiến cũ của cuộc xâm lược trước, tức con đường phía Đông và con đường phía Tây. Cánh quân phía Tây qua các ải Lão Thử (Chi Lăng), Hãm Nê và Tư Trúc, tức đi trên con đường quốc lộ 1 ngày nay, để nhắm hướng Thăng Long. Còn cánh quân phía Đông từ Lộc Châu, tức Ô Bình ngày nay, qua các ải Khả Lỡ và Nữ Nhi để nhắm hướng Vạn Kiếp mà tiến xuống. Đây là con đường vòng qua huyện Sơn Động ngày nay. Và trận đầu tiên, mà chúng gặp là trận Lãnh Kinh do Hưng Đức Hầu Quán chỉ huy. Đây là trận mà Bản kỷ của Nguyên sử gọi là “Giao Chỉ đưa quân chống giữ “.

Trận Vạn Kiếp

Sau trận Lãnh Kinh, về phía sử ta cũng như Trung Quốc không thấy có ghi một trận nào đáng kể nữa. Ngay cả cánh quân phía tây có nói đến 17 trận đánh, nhưng cũng không thấy đâu ghi lại. Còn cánh quân phía Đông do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy thì cứ lặng lẽ mà tiến, dám chừng không gặp một trận đánh nhỏ nào cả. Chỉ thấy đến khi tới Vạn Kiếp, mà theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b8 là vào ngày Giáp Dần của tháng 11 thì mới có một trận đánh xảy ra, và cũng là lúc quân Ô Mã Nhi đã tới gặp được quân của Thoát Hoan.

Lưu Uyên truyện của Nguyên sử 152 tờ 4b10-11 đã ghi thế này: “Năm (Chí Nguyên) 24, Uyên theo đi đánh Giao Chỉ. Trấn Nam Vương Thoát Hoan sai đem 2 vạn quân thủy bộ, đánh sông Vạn Kiếp, bắt được 16 người. Rồi tiếp đánh thành Linh Sơn, bọn giặc đón cự, thua lớn”. Còn Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133 tờ 9b6 chép việc Tích Đô Nhi được lệnh của A Bát Xích đánh chiếm thành Nhất Tự và bắt được 7 chiến thuyền.

Qua tháng 12, cụ thể là ngày mồng 3 Kỷ Mùi, theo An Nam chí lược 4 tờ 55 thì Thoát Hoan đã đến Tứ Thập Nguyên. Tại đây Thoát Hoan được tin thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị đánh chìm, “bèn sai Ô Mã Nhi đốc quân đi cướp lương hướng của An Nam, tả thừa A Lý, Lưu Giang dựng thành gỗ ở hai núi Phổ Lại và Chí Linh để chứa lương nuôi quân “. Nhưng sự việc này theo Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 14 tờ 12a1-2 và 209 tờ 9a13-b1 thì chép vào ngày Quý Dậu, tức ngày 15 tháng 12. Một mặt, nó viết: “Ngày Quý Dậu, Trấn Nam Vương đóng ở cảng Mao La, đánh trại Phù Sơn, phá được”. Mặt khác, An Nam truyện lại co: ữ “Tháng 12, Trấn Nam Vương đóng ở cảng Mao La. Hưng Đạo Vương của Giao Chỉ trốn đi, nhân đó, bèn đánh trại Phù Sơn, phá được, lại sai Trình Bằng Phi và A Lý đem 2 vạn quân giữ Vạn Kiếp, vừa sửa sang rào gỗ ở núi Phổ Lại và Chí Linh”

Thế rõ ràng đại quân của Thoát Hoan đến Vạn Kiếp một cách khá dễ dàng. Chủ trương chiến lược của ta lần này là càng nhữ địch vào sâu nội địa, càng dễ dàng phản công và tiêu diệt chúng. Cho nên, ngay tại Vạn Kiếp, với một trận càn có quân số lên tới 2 vạn mà chỉ bắt được quân ta 16 người. Tuy nhiên, cũng rõ ràng không kém là khi tới Vạn Kiếp và có quân Trịnh Bằng Phi và Ô Mã Nhi cùng hội về, Thoát Hoan đã biết thuyền lương của Trương Văn Hổ không tới. Cũng trong thời gian này, ngày 16 tháng 12, vua Trần Nhân Tông đã sai minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa đến chỗ Hưng Đạo Vương để giữ cửa sông Đại Than, như ĐVSKTT 5 tờ 52b3-4 đã ghi..

Địch chiếm Thăng Long

Đến ngày Kỷ Mão 23 tháng 12, theo An Nam chí lược 4 tờ 55, Thoát Hoan cho quân tiến về Thăng Long với Ô Mã Nhi chỉ huy quân thủy và A Bát Xích điều khiển quân bộ. Khi Phàn Tiếp đem quân thủy đến Bắc Giang thì bị quân ta chặn lại. ĐVSKTT 5 tờ 52b3-4 chép việc tướng Nguyễn Thức ở Đại Than đã đánh với giặc thắng lớn: “Tháng 12 ngày 16 vua xuống chiếu minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa đến Hưng Đạo Vương giữ cửa Đại Than.

Ngày 26 gặp giặc, đánh bại chúng”. Dù có thắng, quân ta vẫn chấp hành chủ trương rút lui. Thế là ngày Ất Dậu tức ngày 29 tết tháng chạp năm Đinh Hợi, theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 12 a4, “Trấn Nam Vương đem các quân vượt sông Phú Lương, đóng dưới thành Giao Chỉ, đánh bại lính giữ thành. Nhật Huyên và con bỏ thành chạy xuống đồn Cảm Nam “.

Khi quân Thoát Hoan đã tiến đến được Thăng Long, bọn Việt gian như Lê Thực, Nguyễn Lĩnh, Lê Án.v.v...Ợ, mà Thoát Hoan đã để lại ở Tư Minh, tưởng có thể về Thăng long một cách an toàn cùng đoàn quân hộ vệ chúng gồm 5 ngàn tên do các tên Tỉnh đô sứ hầu Sư Đạt, Vạn hộ hầu không rõ tên và Thiên hộ Tiêu chỉ huy. Không ngờ vào ngày Giáp Thân 28 tết, khi mới vào cửa ải Nội Bàng, chúng đã bị quân ta đánh tan tác. Năm ngàn quân chỉ còn 60 tên cưỡi ngựa chạy thoát. Sau này khi viết An Nam chí lược 19 tờ 181 Lê Thực đã diễn tả lại tâm trạng mình lúc ấy như sau:

“Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc ch*t, ngày chạy mấy trăm dặm, từ nửa đêm tới tảng sáng thì đến châu, vọng bái cửa khuyết, mừng tết năm Mậu Tý”.

Địch truy đuổi quân ta

Giống như lần trước, khi tiến được vào Thăng Long, bọn Thoát Hoan bàn cách truy đuổi vua Trần Nhân Tông và quân ta. Tên tướng tiên phong A Bát Xích bàn thế này, như Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a5- 7 đã ghi lại: “Giặc bỏ sào huyệt trốn vào núi, biển là có ý đợi chúng ta mệt mỏi, rồi thừa cơ đánh lại. Tướng sĩ ta phần nhiều là người phương Bắc. Lúc xuân hạ giao nhau, chướng khí tật bệnh hoành hành. Chưa bắt được giặc ta không thể giữ lâu được. Nay chia quân bình định các nơi, chiêu hàng những người quy phụ, ngăn cấm quân lính không được cướp bóc, mau bắt ngay Nhật Huyên. Đó là kế hay”

Để thực hiện kế hay này, Thoát Hoan lại sai A Bát Xích tiến công cứ điểm Hàm Tử vào ngày 29 Tết, tức ngày Kỷ Dậu năm Đinh Hợi, như An Nam chí lược 4 tờ 56 đã ghi: “Ngày 29 Kỷ Dậu (Trấn Nam) Vương vượt sông Lô về phía tây, còn A Bát Xích men theo bờ đông, phá ải Hàm Tử. Thế tử rút về giữ ải Hải Thị. Đại binh đánh phá được”. Mặt khác, Thoát Hoan cùng Ô Mã Nhi tiến công cứ điểm Cảm Nam, mà An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b3, đã chép. Rồi từ đó, sau khi ta rút, theo An Nam chí lược 4 tờ 56 chúng lại tiến công cứ điểm Hải Thị. Hải Thị chắc chắn là chỉ cứ điểm A Lỗ, một nhánh của sông Hải Triều, cách đó 3 năm Trần Hưng Đạo đã lần đầu tiên đánh thắng quân đồn trú của Lưu Thế Anh. Sau trận đánh Cảm Nam và Hải Thị ấy, bọn chúng đuổi tới Thiên Trường và áp đến cửa biển Thiên Trường, nhưng không biết vua và quân ta đi đâu.

Chính trong khi đuổi theo quân Đại Việt trong những ngày đầu xuân của năm Mậu Tý, Ô Mã Nhi, dù đã nếm thất bại trong cuộc xâm lược lần trước, vẫn tưởng mình có thể khuất phục Đại Việt trong lần này. Hắn tuyên bố, nếu vua Trần Nhân Tông “lên trời, ta theo lên trời, chạy xuống đất, ta theo xuống đất, trốn lên núi ta theo lên núi, lặn xuống biển ta theo xuống biển”, như lá thư tháng tư năm Chí Nguyên 25 (1288) của vua Trần Nhân Tông do Từ Minh Thiện chép lại trong Thiên nam hành ký của Thuyết phu 51 tờ 19a1-3 ghi nhận. Tuy tức giận thề thốt, Ô Mã Nhi và ngay cả Thoát Hoan vẫn không biết vua Trần Nhân Tông và đại quân của Đại Việt rút đi đâu, như Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 15 tờ 1a5 và 209 tờ 9b4 đã ghi.

Căm tức trước việc không đuổi kịp vua Trần Nhân Tông và đại quân của Đại Việt, bọn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi quay trở lại càn quét vùng dân ở Thiên Trường, tức vùng Nam Định ngày nay. Tại vùng này, chính vua Trần Nhân Tông đã tố cáo tội ác của bọn chúng trong lá thư gửi cho Hốt Tất Liệt tháng tư năm Chí Nguyên 25 (1288), do Từ Minh Thiện chép trong Thiên nam hành ký của Thuyết phu 51 tờ 18b12-19a1: “Chúng đốt phá hết chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt Gi*t người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp của trăm họ. Các hành động tàn nhẫn phá phách, không gì là không làm”. Và chính Trương Lập Đạo, khi đi sứ qua nước ta vào năm 1291, đã ghi lại lúc trở về trong bản hành lục của y về lời tố cáo tương tự của vua Trần Nhân Tông trong một bữa tiệc khoản đãi hắn ở Thăng Long, như An Nam chí lược 3 tờ 46 đã ghi: “Năm ngoái đại quân đến đây, đốt phá nhà cửa, khai quật mồ mả tiên nhân, xương cốt ngổn ngang.. Lời nói chưa dứt thì những người bề dưới đều khóc”.

Ngày mồng 4 Kỷ Sửu tháng giêng năm Mậu Tý (1288), sau khi không đuổi kịp vua Trần Nhân Tông và đại quân của Đại Việt, theo An Nam chí lược 4 tờ 56 Thoát Hoan đã dẫn quân trở về Thăng Long. Tại đây, hắn một mặt sai Áo Lỗ Xích và A Bát Xích dẫn quân đi kiếm lương thực. Mặt khác ra lệnh cho Ô Mã Nhi đem quân thủy đi đón thuyền lương của Trương Văn Hổ qua cửa biển Đại Bàng, như Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 15 tờ 1a6-7 và 209 tờ 9b4-6 đã ghi. Đội thuyền vận tải lương của Trương Văn Hổ, sau trận đánh thủy chậm lắm vào ngày 28 tháng 11 tại vũng Đa Mỗ do tướng Nhân Đức hầu Trần Lang chỉ huy, đến ngày 30 tháng 11 đã bị quân của tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đánh tan tại Vân Đồn và sau đó tại Lục Thủy, tức cửa Lục của Hòn Gai ngày nay.

Chiến thắng Vân Đồn

Trận Vân Đồn, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b13-10a3 đã mô tả như sau: “Thuyền lương của Trương Văn Hổ vào tháng 12 năm ngoái (1287) tới đóng Đồn Sơn thì gặp 30 chiếc thuyền của Giao Chỉ. Văn Hổ đánh. Số giết và bắt được tương đương. Đến biển Lục Thủy, thuyền giặc càng đông, Văn Hổ liệu không thể địch nổi, mà thuyền lại nặng không thể đi được, bèn nhận chìm gạo xuống biển, rồi đi Quỳnh Châu. Thuyền lương của Phí Củng Thìn vào tháng 11 đóng ở Huệ Châu, gió không tiến lên được, trôi dạt đến Quỳnh Châu, cùng họp với Trương Văn Hổ. Thuyền lương của Từ Khánh cũng trôi dạt tới Chiêm Thành, cũng đến Quỳnh Châu. Phàm số lính tráng bị mất 220 người, thuyền 11 chiếc và lương một vạn bốn ngàn ba trăm thạch có lẻ”. Theo An Nam chí lược 4 tờ 56 thì Trương Văn Hổ sau khi thuyền lương bị hãm, đã cưỡi thuyền nhỏ chạy về Khâm Châu. Nhưng đây chắc là chép lầm.

ĐVSKTT 5 tờ 52b6-53a7 đã kể lại chiến thắng Vân Đồn: “Bấy giờ, quân thủy của nhà Nguyên đánh Vân Đồn. Hưng Đạo Vương đem hết công việc biên giới giao cho phó tướng của Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Khánh Dư đánh thất lợi. Thượng hoàng nghe tin, sai trung sứ dến xiềng Khánh Dư đem về kinh. Khánh Dư bảo với trung sứ rằng: ‘Lấy quân luật mà xử, tôi đành chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày để tôi lập công chuộc tội, rồi sau về chịu búa rìu cũng chưa muộn’. Trung sứ nghe theo lời xin. Khánh Dư liệu biết quân giặc qua rồi, thì thuyền lương tất phải theo sau, bèn thu nhặt quân còn lại để đợi. Chốc lát sau, thuyền chở lương quả đến. Bèn đánh bại, bắt được quân lương khí giới của giặc không thể kể xiết, bắt được giặc cũng rất nhiều. Liền chạy thư về báo. Thượng hoàng nghe, tha hết tội trước, nói rằng: ‘Quân Nguyên chỉ nhờ lương, khí giới. Nay ta đã bắt được, sợ nó không biết còn có khi hung hăng’. Bèn thả số người bị bắt, tung đến doanh trại quân Nguyên báo cáo cho chúng nó đầy đủ”.

Chiến thắng Vân Đồn là một chiến thắng vang dội và quyết định. Phía địch cũng thừa nhận chiến thắng này là một tổn thất to lớn của chúng, đúng như ĐVSKTT 5 tờ 53a6-7 đã nhận định: “Năm nay trăm họ không bị thảm khốc như năm trước, Khánh Dư có dự công vào”. Và trước khi có chiến thắng Vân Đồn này, thủy quân Đại Việt đã liên tục chiến đấu từ ngày 12 tháng 11 năm Đinh Hợi cho đến hết tháng 12 năm đó, như ta đã thấy ở trên. Các tướng Nhân Đức Hầu Trần Toàn và Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chắc chắn có lần đã thất bại trong gần 2 tháng liên tục chiến đấu ấy. Bản thân Trần Khánh Dư, như ĐVSKTT cho biết, suýt đã bị Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho xiềng đưa về Thăng Long vì không hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng vị tướng tài ba và kiên trì này đã thành công nhận chìm đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ chỉ trong vài ba ngày. Đây thể hiện rõ ràng quyết tâm đánh và thắng giặc của quân dân Đại Việt thời đó. Đồng thời nó cũng cho thấy bộ chỉ huy chiến tranh tối cao của Đại Việt đã bám sát tình hình chiến sự từ nhiều mặt trận khác nhau, để có những quyết sách đúng đắn vào những thời điểm cần thiết xung yếu.

Trận Đại Bàng

Thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị tướng Trần Khánh Dư tiêu diệt hoàn toàn như vậy và Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã tung quân bắt được vào trại giặc để báo cho bọn chúng biết. Thế mà, Thoát Hoan vẫn ngoan cố không tin, hy vọng hão huyền vào đoàn thuyền lương ấy. Y sai Ô Mã Nhi đi đón chúng qua cửa Đại Bàng. Đến cửa Đại Bàng, Ô Mã Nhi không thấy Trương Văn Hổ ở đâu, mà chỉ thấy quân ta chờ đợi ở đó. ĐVSKTT 5 tờ 51a1-3 chép:

“Ngày mồng 8 (tháng giêng năm Mậu Tý, 1288) quan quân gặp giặc đánh ở ngoài biển Đại Bàng, bắt thuyền do thám của giặc 300 chiếc và 10 cái thủ cấp. Người Nguyên phần lớn ch*t đuối”. Cửa biển Đại Bàng theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 38a4-5 “là ở tại xã Đại Bàng huyện Nghi Dương tỉnh Hải Phòng ngày nay”. Vậy cửa Đại Bàng chính là cửa sông Văn Úc thuộc thành phố Hải Phòng hiện tại.

Sau trận Đại Bàng, Ô Mã Nhi đã dẫn quân đi ngược lên phía Bắc vùng Tháp Sơn, tức Đồ Sơn ngày nay. Một lần nữa, hắn lại gặp thủy quân ta với hơn một ngàn chiến thuyền đang chờ đợi hắn, như theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b8-9 đã ghi: “Ô Mã Nhi do cửa Đại Bàng đến Tháp Sơn, gặp thuyền giặc hơn nghìn chiếc, đắnh phá được”.

Theo văn bia của Lý Thiên Hựu do Tô Thiên Tước viết trong Từ khê văn cảo 18 thì trận Tháp Sơn này do vua Trần Nhân Tông chỉ huy: “Mùa xuân năm sau, quân đến biển Tháp Sơn, đánh bại Thế tử”. Có lẽ đây cũng là một trận đánh tiêu hao sinh lực địch.

Trận Tháp Sơn này, Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133 tờ 9b6-8 có nhắc đến chuyện Tích Đô Nhi có chiến đấu với quân của Hưng Đạo Vương: “Năm sau (1288) mùa xuân tháng giêng, đại quân đến bức chỗ ở của ngụy Hưng Đạo Vương, cùng đánh với người Giao ở Tháp Sơn, cướp mác quơ đánh. Cánh tay phải trúng tên độc, máu chảy cả bụm, lau máu đánh hăng, bắn ch*t hơn hai mươi người Giao, đồng thời thúc các quân thừa thắng tiến tiếp đại bại chúng”.

Như vậy, Tháp Sơn là một cứ điểm quân thủy quan trọng của Đại Việt, tập trung nhiều quân, thuyền và bộ chỉ huy tối cao, trong đó có mặt vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo vào thời điểm đầu mùa xuân năm Mậu Tý (1288). Sau đó, Ô Mã Nhi và Tích Đô Nhi đều có dịp giao chiến và chắc chắn ít nhiều nếm mùi thất bại, nhất là Tích Đô Nhi trúng tên “máu chảy cả bụm”.

Thoát Hoan rút về Vạn Kiếp

Rồi từ Tháp Sơn, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b8-9, Ô Mã Nhi đến cửa An Bang, tức cửa Nam Triệu ngày nay, mà vẫn không gặp thuyền Trương Văn Hổ, thế là chúng kéo nhau trở về Vạn Kiếp. Trên đường về, chúng đi vào sông Bạch Đằng. Tại đây, nhiều căn cứ quân sự ta thiết lập, mà một trong đó là căn cứ Yên Hưng.

ĐVSKTT 5 tờ 54a3 viết: “Ngày 19 tháng 2 năm (Mậu Tý, 1288) Ô Mã Nhi đánh vào trại Yên Hưng”. Đây chắc chắn là một trận tiêu hao sinh lực địch về phía ta. Còn phía Ô Mã Nhi thì đang trên đường rút về Vạn Kiếp, nên hắn không tha thiết truy đuổi, ngay khi có điều kiện. Và thực tế, đoàn quân thủy do hắn chỉ huy, dù muốn, cũng không thể có những trận đánh lớn được.

Riêng cánh quân của A Bát Xích và Ao Lỗ Xích khi được phân công “vào núi tìm lương thực”, thì nghe quân ta đóng ở Kẻ Trầm, Kẻ Lê, Ma Sơn và Ngụy Trại. Chúng đã ra quân tiến đánh mà theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b5-6 thì chém được hơn cả vạn thủ cấp. Còn Tích Đô Nhi thì tiến ra Tháp Sơn rồi cùng theo A Bát Xích kéo về Thăng Long. Tại đây theo Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 2a1-2 vào ngày Đinh Tỡ tháng 12 “Trấn Nam Vương dẫn quân trở về Vạn Kiếp”. Việc này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b6-8 chép vào tháng 3 và kể rõ thêm là “A Bát Xích đã đem quân tiên phong, cướp cửa ải, bắc cầu nổi, phá cửa Tam Giang, đánh hạ được 32 đồn, chém hơn mấy vạn thủ cấp, thu được thuyền 200 chiếc và gạo hơn 11 vạn 3 ngàn thạch”.

Thế là một cuộc rút quân về Vạn Kiếp đầy khó khăn gian khổ và nhiều mất mát thương vong của quân địch, một điều tương phản với cuộc tiến quân nhẹ nhàng ít trở ngại của mấy tháng trước đó về Thăng Long. Ô Mã Nhi từ cửa An Bang cũng kéo quân về Vạn Kiếp hội quân, như đã thấy. Tại đây, khi hàng rào gỗ đã được làm xong xung quanh núi Phả Lại và Chí Linh, Thoát Hoan ra lệnh cho các quân đồn trú cùng chứa hơn 4 vạn thạch lương, mà bọn Ô Mã Nhi và A Bát Xích đã đem về, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b9-10 đã ghi. Trong khi đồn trú ở đây, An Nam chí lược 4 tờ 56 cho biết: “Tháng 2, Thế tử sai người anh họ là Hưng Ninh Vương Trần Tung nhiều lần đến ước hàng, để cố tình làm mệt quân ta, rồi ban đêm sai quân cảm tử đến cướp doanh trại. Trấn Nam Vương nổi giận, sai Vạn hộ Giải Chấn đốt thành, tả hữu can mãi mới ngưng”.

Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a7-10 viết tương tự, nhưng không ghi rõ người đến ước hàng là ai: “Bấy giờ, Nhật Huyên nhiều lần sai sứ đến ước hàng, muốn lấy của cải, để hoãn quân ta. Các tướng đều tin lời nó, lại sửa thành để ở, mà đợi nó đến. Quá lâu, quân thiếu ăn, Nhật Huyên không hàng, giữ quân, đóng Trúc Động và cửa biển An Bang”.

Từ khi quân địch rút về Vạn Kiếp, bọn chúng đã ở trong một tâm trạng hoang mang khiếp sợ tột độ. Khoét sâu vào tâm lý hoang mang này của giặc, người anh hùng giải phóng Thăng Long lần trước là Tuệ Trung Trần Quốc Tung lãnh nhiệm vụ đi điều đình với giặc để làm cho chúng càng hoang mang thêm. Có lúc Thoát Hoan đã muốn đốt cả ngôi thành bảo vệ cho chính sự sống còn của chính y. Trong một tâm trạng hoang mang cùng cực như vậy mà một hội nghị quân sự chớp nhoáng của đám bại quân đã diễn ra.

Theo An Nam chí lược 4 tờ 56 thì thần nỏ tổng quản Giã Nhược Ngu dâng lời nói rằng: “Quân có thể về, không có thể giữ”. Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử ghi: “Gặp lúc tướng sĩ phần nhiều dịch bệnh, không thể tiến, mà các mọi lại phản, các cửa ải chiếm được đều thất thủ, bèn bàn rút quân”. Và chính bản thân Thoát Hoan cũng bảo:

“Đất nóng, ẩm thấp, lương thiếu, quân mệt”. Cuối cùng, chúng đã đi đến quyết định rút quân, mà An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b10-11 đã viết: “Các tướng nhân thế nói rằng Giao Chỉ không có thành trì có thể giữ được, kho lẫm có thể ăn được, thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ không đến. Mà tiết trời đã nóng, sợ lương hết quân mệt, không lấy gì để kéo dài lâu, làm nhục triều đình. Nên bảo toàn quân để mà trở về. Trấn Nam Vương làm theo”.

Chiến thắng Bạch Đằng

Đã quyết định rút lui, nhưng rút lui bằng cách nào? Theo An Nam chí lược 4 tờ 56 thì cũng trong hội nghị ấy, bọn tướng tá quân thủy của giặc đều đồng thanh nói: “Thuyền lương hai lần vào đều bị hãm, không bằng bỏ thuyền theo đường bộ. Đó là kế sách hay nhất”. Thoát Hoan muốn nghe theo, nhưng đám tả hữu đều ngăn lại. Cho nên, cuối cùng, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b11-12 chúng chia quân làm hai cánh. Một cánh quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy đi về trước cùng với Trình Bằng Phi và Tháp Xuất (Ta?u) đem quân bộ đi hộ tống.

Bản kỷ của Nguyên sử 5 tờ 2b-4 ghi sự kiện ấy vào ngày Nhâm Ngọ, tức 27 tháng 2 năm Mậu Tý.

Đám quân đi hộ tống này tự bản thân nó gặp quá nhiều khó khăn. An Nam chí lược 4 tờ 56 chép:

“Ngày mồng 3 tháng 3, Đinh Hợi, hữu thừa Trình Bằng (Phi), thiêm tỉnh Đạt Mộc (đúng ra phải đọc là Truật, LMT) đem kỡ binh, đưa quân thủy, qua chợ Đông Hồ (Hồ đúng ra phải đọc là Triều, LMT) mắc sông bèn trở về, vì cầu cống đều bị quân kia cắt đứt, đợi ta mà đánh. Trình hữu thừa liền hỏi những hương lão đã bắt được, đang đêm dẫn chạy qua đường khác thì bắt kịp đại quân”. Thế rõ ràng nhiệm vụ hộ tống do Thoát Hoan giao cho Trình Bằng Phi và Tháp Xuất đã không được hoàn thành, vì cầu cống đã bị quân ta phá. Chúng cố gắng trở về gặp Thoát Hoan để rút lui bằng đường bộ với hy vọng số phận sẽ khá hơn.

Còn quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy thì cứ chậm chạp tiến ra biển với những trận tập kích của quân ta, mà chúng phải đánh trả hằng ngày. Trương Ngọc truyện của Nguyên sử 166 tờ 9a3-4 đã mô tả:

“Năm 25 (1288) quân về. An Nam đem quân nghênh chiến, đánh lớn suốt ngày”. Đến ngày mồng 7 Tân Mão, An Nam chí lược 4 tờ 56 cho biết quân thủy của Ô Mã Nhi đã đến Trúc Động. Quân ta tiến đánh thì bị tướng địch Lưu Khuê đánh lui và bắt được của ta 20 chiến thuyền. Trúc Động là một căn cứ lớn của quân ta, nơi trước đó một tháng A Bát Xích và đặc biệt là Ô Mã Nhi đã từng chiến đấu, như Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a9 và Cố thừa sự lang Tượng sơn huyện doãn Lý hầu mộ bi trong Từ khê văn cảo 18 đã ghi.

Có thể vì đã từng chiến đấu ở Trúc Động, nên dù Lưu Khuê đánh lui được quân ta lần này, Ô Mã Nhi vẫn không dám dẫn quân thủy của mình đi vào sông Bạch Đằng qua ngã sông Giá, nơi có căn cứ Trúc Động. Ô Mã Nhi đã chọn tiến xuống sông Bạch Đằng bằng con đường sông Đá Bạc. Sông Bạch Đằng là nơi ta có nhiều cứ điểm chiến đấu. Ngày 19 tháng 2 năm Mậu Tý (1288)ữ, ĐVSKTT 5 tờ 54a3 chép Ô Mã Nhi đã tấn công vào trại Yên Hưng trước khi trở về Vạn Kiếp. Trại Yên Hưng nằm ở tảử ngạn sông Bạch Đằng. Cho nên, đến ngày 8 tháng 3, cũng theo ĐVSKTT 5 tờ 54a4-b4, “quân Nguyên hội tại sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ nhưng mà không gặp.

Hưng Đạo Vương đem quân đánh, giặc bị thua. Trước đó Vương đã trồng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên.

Hôm ấy nhân lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến, rối giả thua chạy về Bắc. Bọn giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều rút, thuyền giặc bị vướng cọc. Nguyễn Khoái đem quân Thánh dực dũng nghĩa cùng đánh với giặc, bắt được bình chương Áo Lỗ Xích. Hai vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn. Quân Nguyên ch*t đuối không thể kể xiết, nước sông vì thế đỏ ngầu. Rồi Văn Hổ đến phục binh hai bờ đổ ra đánh. Giặc lại thua. nước triều rút rất nhanh. Thuyền lương của Văn Hổ gác lên trên cọc, nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên ch*t đuôi rất đông, bắt được hơn 400 thuyền tuần tiễu. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Vương, dâng lên Thượng hoàng. Thượng hoàng sai dẫn lên thuyền ngự cùng ngồi và nói chuyện vui vẻ uống rượu”.

Đoạn mô tả về trận Bạch Đằng của ĐVSKTT cơ bản là chính xác, trừ một số tình tiết tỏ ra không đúng. Thí dụ Văn Hổ không có tham gia trận đánh này và việc Ao Lỗ Xích không bị bắt ở sông Bạch Đằng. Ngoài ra, có nhiều chi tiết khác, ĐVSKTT đã không ghi lại, mà sử liệu Trung Quốc đã chép. Chẳng hạn Trương Ngọc truyện của Nguyên sử 166 tờ 9a3-4 chép việc Trương Ngọc “năm Chí Nguyên 24 (1287) theo tham tri chính sự Ô Mã Nhi đánh Giao Chỉ, nhiều lần đánh có công. Năm 25 (1288) quân về, An Nam đem quân đón đánh. Đánh lớn suốt ngày. Nước cạn, thuyền không đi được, Ngọc ch*t”.

Còn về vai trò của Phàn Tiếp, An Nam chí lược 4 tờ 56, sau khi kể việc “Ô Mã Nhi không do đường biển trở về, mà do sông Bạch Đằng”, viết tiếp: “Khi gặp địch, Ô Mã Nhi tự mình dẫn quân lương đón đánh. Phàn tham chính chiếm lấy núi cao để tiếp ứng, nước triều rút nhanh, quân hãm”. Phàn Tiếp truyện của Nguyên sử 166 tờ 10b2-3 chép trận đánh càng rõ hơn nữa: “Tiếp cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chận. Triều sông Bạch Đằng xuống.

Thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn như mưa. Tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ Dậu. Tiếp bị súng bắn, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng Thu*c độc giết”.

Phàn Tiếp truyện, như vậy, ghi nhận trận đánh xảy ra từ giờ Mão đến giờ Dậu, tức từ sáng tới chiều thì chấm dứt.

Thuyền của Đại Việt tập trung rất đông, “tên bắn như mưa”. Và việc Phàn Tiếp, khi bị thương nhảy xuống nước, quân ta đã dùng câu liêm móc lên, bắt được, rồi sau đó hơn 10 ngày mới giết đi, vì ngày 17 khi vua Trần Nhân Tông hiến tiệp ở Long Hưng, thì Phàn Tiếp còn có mặt cùng với đám Tích Lệ Cơ (Ơirôgi), Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đãi, Sầm Đoạn, Mai Thế Anh, Điền nguyên soái.v.v...

Bãi cọc đã treo thuyền cả đám tướng tá giặc vào ngày mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý (1288) ấy, ngày nay chưa xác định được rõ ràng. Tuy nhiên, ta biết việc đóng cọc trên sông Bạch Đằng phải xảy ra trong thời gian chưa đầy 3 tuần kể từ khi Ô Mã Nhi tấn công trại Yên Hưng vào ngày 19 tháng 2 và đến ngày mồng 8 tháng 3 quân Ô Mã Nhi đã có mặt ở sông Bạch Đằng. Trong tình hình chiến tranh thời bấy giờ, việc đưa một đoàn thủy quân địch vào đúng ổ phục kích do ta thiết kế quả là một thành công rực rỡ của khoa học và nghệ thuật chỉ đạo quân sự của bộ chỉ huy tối cao của đất nước lúc ấy, mà đứng đầu là vua Trần Nhân Tông.

Sự có mặt của vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng cũng như Trần Hưng Đạo và Nguyễn Khoái chứng tỏ trận đánh này trên hết nếu không do chính vua Trần Nhân Tông chỉ đạo và vạch kế hoạch, thì cũng phải do chính nhà vua phê chuẩn và đồng ý thực hiện. Thực tế, chỉ việc vua Trần Nhân Tông hiện diện tại mặt trận này biểu thị một quyết tâm cao của người lãnh đạo đất nước phải thực hiện cho được chủ trương và kế hoạch đã đề ra, coi đây là một nhiệm vụ xung yếu phải hoàn thành để đạt mục đích của cuộc chiến tranh. Sự kiện tiêu diệt toàn bộ đội thủy quân do Ô Mã Nhi chỉ huy ngày nay thường được nhiều người nghiên cứu gắn vào cho tên tuổi Trần Hưng Đạo, mà quên đi sự hiện diện của vua Trần Nhân Tông tại trận đánh quyết chiến tiêu diệt này. Trong mọi cuộc chiến tranh, lãnh đạo chính trị bao giờ cũng là thống soái. Chỉ có sự lãnh đạo chính trị mới tập hợp hết được mọi lực lượng của dân tộc cho cuộc chiến tranh. Không có cuộc tập hợp này thì dù có tướng tài tới bao nhiêu, dù có kế hoạch tác chiến tốt tới đâu, và dù nhân dân yêu nước và quyết tâm chiến đấu cao tới mức nào đi nữa, thì cuộc chiến tranh vẫn thất bại.

Thoát Hoan tháo chạy

Trước một ngày khi đoàn thủy quân của Ô Mã Nhi bị tiêu diệt toàn bộ trên sông Bạch Đằng, tức ngày Tân Mão mồng 7 tháng 3, theo Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 2b13, Thoát Hoan đã đem đại quân rút về nước. A Bát Xích lần này lại cũng được chọn làm tướng tiên phong đi mở đường, như truyện của y trong Nguyên sử 129 tờ 2a10-11 đã ghi:

“(A Bát Xích) chọn các quân bộ kỡ, sai đi trước mở đường, vừa đánh vừa đi, ngày mấy chục hiệp. Giặc chiếm các điểm cao hiểm trở, bắn tên độc xuống. Tướng sĩ cột vết thương để đánh. Các quân hộ vệ Hoàng tử ra khỏi nước giặc”.

Thế A Bát Xích mở con đường nào? An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a3-6 trả lời: “Trấn Nam Vương đóng ảI Nội Bàng. Quân giặc dồn về nhiều. Vương đánh phá được, sai vạn hộ Trương Quân đem quân tinh nhuệ ba ngàn người chặn hậu, hết sức đánh, mới ra khỏi ải. Điệp báo Nhật Huyên và bọn Thế tử cùng Hưng Đạo Vương chia quân hơn ba mươi vạn giữ ải Nữ Nhi và núi Khâu Cấp, liền hơn trăm dặm, để chặn quân rút về. Trấn Nam Vương bèn do huyện Đơn Kỷ đến Lộc Châu, đi tắt để về đóng châu Tư Minh”.

Đây là con đường phía Đông từ Sơn Động đi lên Lộc Bình của Lạng Sơn ngày nay. Còn Tích Đô Nhi thì được cử đi theo con đường phía Tây, tức quốc lộ một hiện tại từ Chi Lăng lên Vĩnh Bình. Tích Đô Nhi truyện trong Nguyên sử 133 tờ 9b10-13 chép: “Trấn Nam Vương dẫn quân về, Tích Đô Nhi làm tiền quân, đi đến cửa quan Hãm Nê, đánh vài chục hiệp, người Giao rút lui, bèn trở về đón Trấn Nam Vương ở cửa Nữ Nhi. Người Giao hơn bốn vạn chặn đường chính. Bấy giờ, quân ta thiếu ăn, vừa mệt đánh trận. Tướng tá nhìn nhau thất sắc. Tích Đô Nhi đem dũng sĩ hăng hái cầm giáo mác xông đánh. Người Giao rút lui hơn hai mươi dặm, bèn được toàn quân, mà trở về”.

Vậy chỉ 2 ngày sau khi xuất phát, tức ngày Giáp Ngọ mồng 10 tháng 3 khi Thoát Hoan đến cửa Nội Bàng thì bị quân ta tập trung đánh lớn, mà như Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3a-4 cho là để chặn đường về của quân Thoát Hoan.

Thoát Hoan bèn đi đường huyện Đơn Kỷ, tắt qua Lộc Châu, để ra khỏi nước ta, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a3-6 đã viết. An Nam chí lược 4 tờ 56 còn cung cấp cho ta thêm một số chi tiết. Theo đó, khi Thoát Hoan rút khỏi Vạn Kiếp để về cửa Nội Bàng, thì lọt ngay vào một ổ phục kích của ta. Vạn hộ Đáp Lạt Xích (Dara?i ) và Lưu Thế Anh cố sức đánh, bắt được 2 tướng ta là Phạm Trù và Nguyễn Kỡ. Chúng liền chém cho hả giận.

Trận đánh này chắc là trận xóm Hàn, mà Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133b8-10 nói tới:

“Tháng tư đánh ở đồn xóm Hàn, bắt được tướng nó là Hoàng Trạch. Trống canh hai đêm đó, người Giao đột xuất đến, có ý cướp doanh trại. Quan quân giữ vững lũy để đợi địch mất kế. Đến sáng đánh trống ra khỏi doanh. Người Giao rút lui. Ta đuổi theo, giết rất nhiều, rồi trở về doanh trại, dựng rào gỗ, tăng cường lính tuần. Người Giao không dám đánh nữa”.

Khi đến Nội Bàng, nghe tin quân ta đào hầm để bẫy ngựa nhằm giữ ải Nữ Nhi, Thoát Hoan đã sai châu mục Tư Minh là Hoàng Kiên đem y bằng đường khác đi tắt đến Lộc Châu, để bảo toàn quân mà trở về.

Qua những ghi chép này của tư liệu Trung Quốc, ta thấy cuộc rút quân của Thoát Hoan quả thật là một cuộc tháo chạy hết sức gian khổ, tìm mọi cách để tránh các cuộc đụng độ với quân ta. Ấn tượng này càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, khi ta đọc chính ngay truyện của những tên tướng đã tham gia cuộc chiến này trong Nguyên sử. Thí dụ nếu ta đọc truyện Lai A Bát Xích của Nguyên sử 129 tờ 2a10-12 dẫn trên, ta thấy quân ta liên tục tấn công quân địch, từ trên núi cao bắn tên độc xuống, bọn địch trúng thương, chúng đã phải “buộc vết thương lại mà đánh”. Tấm gương điển hình là chính A Bát Xích. Hắn bị 3 mũi tên độc bắn vào đầu, cổ và đùi, mà vẫn cố gắng chỉ huy. Khi vết thương sưng lên, A Bát Xích đã đền mạng.

Còn ta đọc truyện của Tích Đô Nhi ở Nguyên sử 133 tờ 9b10-13 thì thấy lúc đó quân Nguyên “đã thiếu ăn, lại mệt vì chiến đấu. tướng tá nhìn nhau thất sắc”. Nhưng vì bị quân ta đuổi quá rát, bọn chúng phải “cố xông lên mà đánh” nhằm thoát khỏi sự vây bọc và tiêu diệt của quân ta. Hình ảnh những tên tướng tá và binh sĩ mỏi mệt thiếu ăn, cố gắng bằng mọi cách chạy về bên kia biên giới, thật là tương phản với sự hung hăng, tàn ác, khi chúng mới chiếm được nước ta.

Trong trận tháo chạy này, đám quân Vân Nam do Ái Lỗ chỉ huy dường như cũng sát nhập với đạo quân của Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Lý do nằm ở chỗ khi về tới Tư Minh vào ngày Kỷ Hợi 15 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), Thoát Hoan đã sai Ái Lỗ dẫn quân mình trở về Vân Nam, còn Ao Lỗ Xích thì đem đại quân về Bắc, như Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 15 tờ 3a8 và 209 tờ 10a6 đã ghi.

Về phía sử ta, ĐVSKTT 5 tờ 54b4-5 chép: “Thoát Hoan và A Thai đem quân trốn về Tư Minh, thổ quan Hoàng Nghệ bắt được đem dâng”. Rõ ràng Thoát Hoan không thể bị quân ta bắt trong lần tháo chạy này, vì sau đó tại Trung Quốc, tên tuổi Thoát Hoan vẫn còn được ghi chép trong các sử liệu Trung Quốc, như vừa thấy. Còn A Thai, có khả năng đã bị quân ta bắt vì sau đó không thấy tên tuổi của viên thân vương này xuất hiện ở đâu nữa.

Khải hoàn về Thăng Long

Quân địch một lần nữa bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Nỗi kinh hoàng của chúng mấy năm sau tên phó sứ Trần Phu vẫn còn cảm thấy trong bài thơ Sứ hoàn cảm sử của Trần Cương Trung thi tập, đặc biệt là hai câu:

Kim khoa ảnh lý đan tâm khổ

Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh

(Giáo sắt sáng ngời lòng thắm khổ

Trống đồng vang dội bạc đầu phơ)


Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng đã về phủ Long Hưng, đem theo bọn tướng tá giặc đã bắt được như Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Đường Ngột Đãi, Mai Thế Anh, Sầm Đoạn, A Thai, Điền nguyên soái v.v.. để hiến tiệp trước bàn thờ của vua Trần Thái Tông, người anh hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1258. Đứng trước tòa lăng của người ông anh hùng, mà quân giặc đã đào bới, đến nỗi mấy con ngựa đá phải lấm bùn, vị Hoàng đế anh hùng, nhà quân sự thiên tài Trần Nhân Tông không ngăn nổi xúc cảm đã thốt lên hai câu thơ, mãi mãi thể hiện tấm lòng nhân hậu ngay cả với vật vô tri như ngựa đá của một con người vừa ra khỏi khói lửa của chiến tranh, cũng niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn vĩnh viễn của dân tộc:


Xã tắc đôi phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng


Ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng đã trở về kinh đô Thăng Long trong tiếng hoan hô reo mừng vang dậy của một thủ đô vừa chiến thắng kẻ thù. Sự nghiệp xây dựng hòa bình đang chờ đợi sự chỉ đạo của vị vua anh hùng này.


Thiền sư Lê Mạnh Thát

Trích Trần Nhân Tông Toàn tập - Chương IV

Lê Mạnh Thát

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/vua-tran-nhan-tong-va-cuoc-chien-tranh-ve-quoc-nam-1288-d29355.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY