Ung thư (K) là một trong các bệnh có tỷ lệ Tu vong cao nhất. Có nhiều bệnh ung thư tùy theo nơi nó phát sinh như: K phổi, K vú, K đại tràng, K vòm họng, K bàng quang, K gan…Ung thư ở những nơi khác nhau có tỷ lệ Tu vong khác nhau.
Yếu tố sinh học như virut gây viêm gan B (HBV), virut gây viêm gan C (HCV). HBV, HCV là 2 virut có khả năng gây ung thư gan nguyên phát.
Người ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp vật lý, phương pháp giải phẫu bệnh và phương pháp hóa sinh thông qua việc xác định dấu ấn ung thư “ Tumor marker”. Mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm riêng. Ví dụ phương pháp giải phẫu bệnh cung cấp cho chúng ta thông tin "vàng" về khối u, nhưng hạn chế về mặt tâm lý, đau khi chọc hút sinh thiết. Phương pháp hóa sinh “enzym-miễn dịch” xác định chính xác các Tumor marker, chỉ cần lấy máu hoặc nước tiểu để xét nghiệm dễ hơn, cũng cho chính xác bản chất bệnh ung thư mà không gây đau nhiều cho bệnh nhân.
Các chất hóa học (như HCPC), các yếu tố vật lý (như tia X, tia α, β) có thể làm thay đổi bộ máy thông tin di truyền ở người, biến đổi gen tiền ung thư (Proto oncogen) thành gen ung thư (Oncogen = gen K). Virut đưa thông tin của chúng vào cơ thể, hợp nhất với thông tin của tế bào người, tổng hợp ADN theo mã thông tin virut, kết quả là tổng hợp nên ADN, ARN của virut trong tế bào người. Có thể tóm tắt cơ chế gây ung thư theo sơ đồ sau:
Đặc hiệu tổ chức, khác với phân tử do tế bào lành (bình thường) tổng hợp ra. Đặc hiệu cơ quan, chỉ điểm được cơ quan bị ung thư.
Dễ lấy, bảo quản các bệnh phẩm như huyết tương, nước tiểu. . Có độ nhạy cao và phản ánh được tiến triển của khối u.
Marker là một kháng nguyên được chêm (kẹp) giữa 2 kháng thể đơn dòng. Kháng thể thứ nhất được gắn vào thành ống nghiệm, kháng thể thứ 2 được gắn với chất phát tin (chất đồng vị phóng xạ, chất huỳnh quang hoặc là enzym), nên khi có kháng nguyên do tế bào K tiết ra trong huyết tương thì kháng thể sẽ kẹp lấy, tạo thành phản ứng kháng nguyên-kháng thể, phức hợp KN-KT này sẽ được phát hiện nhờ chất phát tín hiệu: tia phóng xạ với chất phát tín là phóng xạ, phát ánh sáng huỳnh quang nếu chất phát tín hiệu là chất huỳnh quang, nếu chất phát tín hiệu là enzym thì nhờ phản ứng enzym - màu để xác định. Thường dùng enzym peroxidase (POD) để phân hủy H2O2 thành H2O và oxy, oxy này oxy hóa một chất không màu thành chất có màu, cường độ màu tỷ lệ với nồng độ phức hợp KN-KT, tức là tỷ lệ với nồng độ kháng nguyên cần xác định.
Kháng nguyên (Tumor Marker) - có trong huyết tương do tế bào K tiết ra, lúc đó kháng thể I gắn với kháng nguyên tạo phức hợp kháng nguyên-kháng thể (nhưng chưa phát hiện được).
Kháng thể II gắn chất phát tin (phóng xạ, huỳnh quang, enzym) sẽ kết hợp với phần KN thích hợp. Như vậy, 2 kháng thể đã kẹp kháng nguyên vào giữa (Sandwich), lúc này phức hợp kháng nguyên-kháng thể nhờ chất phát tín mà ta có thể phát hiện và xác định được.
Phương pháp hóa sinh thường dùng chất phát tin là enzym và phản ứng phát hiện kháng nguyên-kháng thể như sau:
Sau khi thực hiện phản ứng cần rửa bỏ kháng thể thừa, chỉ còn phức hợp kháng thể kháng nhân-chất phát tín hiệu. Hiện nay kỹ thuật mới TRACE (time resolved amplified criptate emission) không cần giai đoạn phải tách rửa do dùng fluorophore gắn với kháng thể đặc hiệu.
Tumor Marker | Bệnh ung thư |
AFP ( Alphafoeto- protein) (Bình thường < 10 ng/ml) | Ung thư gan |
CEA (Carcino- Embrionic antigen) (Bình thường < 10 ng/ml) | Ung thư trực tràng |
CA15-3 (Cancer antigen 15-3) (Bình thường < 30 U/l) | Ung thư vú |
CA 125 (Cancer Antigen 125) (Bình thường < 35 U/l) | Ung thư buồng trứng |
CYFRA21-1 (Cytokeratin19 fragment) (Bình thường < 1,8 ng/ml) | Ung thư phổi |
PSA và FPSA (Prostate specific antigen) Bình thường: < 50 tuổi < 1,5 ng/ ml > 50 tuổi > 5 ng/ ml | Ung thư tuyến tiền liệt |
CSC (Squamous cell carcinoma) // CYFRA21-1 CA72- | Ung thư tai-mũi-họng |
4 // CA 19- 9, CEA | Ung thư dạ dày |
Calcitonin // CEA | Ung thư tuyến giáp |
TPA (Tissue polypeptide antigen) | Ung thư bàng quang |
CA 19- 9 // CEA; SCC // CYFRA21- 1 | Ung thư thực quản |
CA 19- 9 // CEA, CA 50 | Ung thư tụy |
β-HCG, AFP | Ung thư tinh hoàn |
Để xác định các Tumor marker, người ta thường sử dụng phương pháp hóa sinh: Enzym-miễn dịch (Elisa), ngoài ra còn dùng phương pháp miễn dịch điện hoá (EIA), phương pháp miễn dịch phóng xạ (RIA).
Nguồn: Internet.