Nếu không phát hiện và xử trí kịp thời, bệnh nhân có thể tàn tật và thậm chí là Tu vong do đột quỵ hoặc phải điều trị bệnh thận giai đoạn cuối rất tốn kém. Vì vậy, việc chẩn đoán sớm và điều trị sớm có thể ngăn ngừa là vô cùng quan trọng.
là do tăng đường máu kéo dài gây tổn thương các mạch máu nhỏ của thận do: mất protein qua nước tiểu, tăng huyết áp, phù và các triệu chứng tổn thương thận tiến triển, cuối cùng, tổn thương tiến triển dẫn đến suy thận nặng.
Trong những bệnh nhân nguy cơ chuyển sang bệnh thận bao gồm: Đái tháo đường týp 1 (ĐTĐ phụ thuộc insulin): Xuất hiện ở người trẻ tuổi, cần insulin để kiểm soát bệnh. Sẽ bị bệnh thận ở bệnh nhân khoảng 30 - 35%. Đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ không phụ thuộc insulin): Thường xuất hiện ở người trưởng thành, Hầu hết các trường hợp có thể kiểm soát được mà không cần insulin. Sẽ bị bệnh thận ở bệnh nhân khoảng 10 - 40%.
Một số yếu tố nguy cơ chính gây ra tình trạng bệnh nhân sẽ bị bệnh thận bao gồm: Đái tháo đường týp 1 khởi phát từ trước tuổi 20. Kiểm soát kém (nồng độ HbA1c cao). Kiểm soát tăng huyết áp kém. Tiền sử gia đình bị và bệnh thận mạn tính. Có vấn đề về thị lực (bệnh võng mạc đái tháo đường) hoặc tổn thương dây thần kinh (bệnh thần kinh đái tháo đường) do đái tháo đường. Có protein trong nước tiểu, béo phì, hút Thu*c vàtăng lipid huyết thanh. Đái tháo đường là nguyên nhân gây bệnh thận giai đoạn cuối ở 1/3 bệnh nhân điều trị lọc máu.
Chia sẻ về những phương pháp phòng ngừa, BS.CK1 Lê Thị Bích Huyên - Bệnh viện Nhân dân 115 cho biết, bệnh nhân cần đo huyết áp và làm tổng phân tích nước tiểu bằng que nhúng 3 tháng một lần. Xét nghiệm creatinine máu (và MLCT ước tính) hàng năm với tất cả bệnh nhân đái tháo đường. Điều quan trọng nữa là cần tái khám bác sĩ định kỳ. Cố gắng kiểm soát tốt nhất đường máu. Giữ nồng độ HbA1C < 7%. Giữ huyết áp < 130/80 mmHg (UCMC/ UCTT). Ăn hạn chế đường và muối, và ăn chế độ giảm protein, cholesterol và mỡ. Kiểm tra thận ít nhất một lần mỗi năm bằng cách tiến hành xét nghiệm albumin niệu và creatinine máu (và MLCT ước tính).
Ngoài ra, bệnh nhân phải tập thể dục thường xuyên và duy trì cân nặng lý tưởng. Tránh uống rượu, hút Thu*c, các sản phẩm Thu*c lá và lạm dụng Thu*c giảm đau.
Tuy nhiên đó chỉ là phần nổi của tảng băng. Các biến chứng tim mạch ở người bệnh đái tháo đường type 2 là cả một quá trình phức tạp, không chỉ do đường huyết cao mà còn do nhiều yếu tố nguy cơ khác như: lớn tuổi, hút Thu*c lá, béo phì, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp… Người bệnh đái tháo đường có càng nhiều yếu tố nguy cơ, thì tỉ lệ mắc và Tu vong do bệnh lý tim mạch càng cao.”
Hầu hết những biểu hiện tim mạch do đái tháo đường thường rất âm thầm trong giai đoạn đầu. Vì vậy, đa số người bệnh chủ quan và làm cho các biến chứng này thường được phát hiện ở giai đoạn muộn, gây khó khăn cho việc điều trị.
Các biến chứng trên tim mạch có thể được phát hiện sớm thông qua việc thăm khám và thực hiện các xét nghiệm máu cũng như đo điện tim, siêu âm tim, hoặc các nghiệm pháp đánh giá chuyên sâu khác.
Việc phát hiện sớm các biến chứng giúp cho người bệnh đái tháo đường được điều trị một cách toàn diện, ngăn ngừa các biến chứng cấp tính như nhồi máu cơ tim cấp.
Trong trường hợp không được chẩn đoán và điều trị phòng ngừa sớm, người bệnh thường nhập viện ở giai đoạn muộn, gây ra nhiều khó khăn trong việc điều trị, gia tăng tỉ lệ Tu vong và chi phí điều trị, cũng như tỉ lệ phục hồi thấp.
Minh Hân
Chủ đề liên quan:
bệnh đái tháo đường bệnh thận đái tháo đường biến chứng đái tháo đường người bệnh ở người thận thận mạn