Từ lâu đã có nhiều quan điểm về việc nhịn ăn có lợi hay có hại. Nhiều ý kiến cho rằng nhịn ăn có nhiều lợi ích như giảm cân, điều hòa độ nhạy của insulin, giảm lượng chất béo trung tính trong cơ thể và làm chậm quá trình lão hóa.
Nhưng cũng có nhiều chuyên gia dinh dưỡng cho rằng không nên khuyến khích nhịn ăn bởi tiềm ẩn nhiều rủi ro sức khỏe. khi nhịn đói, lượng thức ăn không lành mạnh và những thực phẩm cơ thể cần như trái cây, rau, đạm và chất béo đều bị giới hạn, khiến cơ thể bị thiếu hụt dinh dưỡng. bên cạnh đó, nhịn ăn thường dẫn đến việc ăn bù và sau đó tăng cân.
Một số nhà nghiên cứu mô tả quá trình cơ thể diễn ra trong ba ngày khi nhịn ăn như sau:
Trong 6 giờ đầu kể từ khi nhịn ăn, mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường và hầu như không có gì nguy hại. Cơ thể sẽ bắt đầu phá vỡ glycogen (chất có tác dụng dự trữ năng lượng cho cơ thể) thành đường glucose để cung cấp năng lượng cho tế bào. Sau 6 giờ, cách sản sinh năng lượng này sẽ từ từ giảm và toàn bộ lượng glycogen sẽ cạn kiện, cơ thể sẽ bị đói.
Từ 6 giờ - 72 giờ tiếp theo, cơ thể sẽ rơi vào trạng thái ketosis hay còn gọi là cực đói. Vì lượng glucose đã cạn kiệt, cơ thể phải dùng acid béo từ mỡ để làm năng lượng. Nhưng não không thể dùng loại năng lượng này vì các chuỗi acid béo dài không thể thâm nhập vào các mạch máu não. Não bắt đầu sản sinh ra keton để bẻ các chuỗi acid béo dài thành các chuỗi ngắn, nhưng chỉ đáp ứng được 75% lượng năng lượng mà não cần. Nhận thức của cơ thể trở nên yếu dần do não đã bị ảnh hưởng.
Sau 72 giờ, não sẽ tự phá vỡ các protein trong cơ thể, sản sinh ra amino acid dùng để chuyển hóa thành đường glucose. cơ thể tự phá hủy các khối cơ để "nuôi" não, hậu quả người nhịn ăn sẽ gầy và cơ bắp teo dần, cơ thể thiếu những chất dinh dưỡng cần thiết dẫn đến yếu, mệt ảnh hưởng đến sức khỏe.
Còn thực dưỡng là chế độ ăn dựa vào luật âm dương để cân bằng thành phần thực phẩm trong bữa ăn. Nguyên tắc chính của chế độ ăn này là giảm tối đa ăn thịt động vật, sử dụng các thực phẩm có sẵn theo mùa được trồng tại địa phương và lượng thức ăn tiêu thụ hằng ngày ở mức hợp lý. Chế độ ăn này trở nên phổ biến bởi George Ohsawa vào những năm 1930 ở Nhật Bản.
Thực dưỡng khuyến khích ăn các loại ngũ cốc nguyên hạt như: đậu, rau củ, các loại rong biển ăn được, các sản phẩm từ đậu nành lên men và trái cây kết hợp thành các bữa ăn. Các thực phẩm như cá và hải sản, các loại hạt, hạt nhỏ và bơ hạt tách vỏ, gia vị, chất làm ngọt, trái cây và đồ uống, đôi khi được sử dụng, tần suất hai đến ba lần mỗi tuần. Từ đó, cơ thể hấp thụ được nhiều chất xơ, các chất khoáng và vitamin không có nhiều trong động vật, giúp chống táo bón, giảm cholesterol, giảm thèm ăn, tránh béo phì, giảm triglyceride và mỡ xấu.
Song, ở những phiên bản sơ khai, chế độ ăn thực dưỡng chỉ khuyến khích ăn gạo lứt và uống nước, gây thiếu hụt dinh dưỡng nghiêm trọng và thậm chí Tu vong. gạo lứt chỉ cung cấp một phần chất dinh dưỡng, vẫn rất cần ăn bổ sung với các nhóm thực phẩm khác như các nhóm thức ăn giàu protid, lipid, rau củ quả khác để cung cấp đầy đủ vitamin và khoáng chất cho cơ thể. ăn nhiều rau củ nhưng thiếu thịt cá, cơ thể sẽ bị thiếu một số chất khoáng như sắt, kẽm, calci, vitamin b12, dễ có nguy cơ thiếu máu.
Đối với người lớn tuổi, những người cần một số chất dinh dưỡng có trong thịt cá, chế độ ăn thực dưỡng không phải là lựa chọn an toàn cho sức khỏe.
Người bệnh mạn tính như tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu càng cần tuân thủ nghiêm chế độ dinh dưỡng do bác sĩ tư vấn. ví dụ: ăn gạo lứt, gạo nguyên cám thay cho gạo trắng để tăng cường chất xơ; bổ sung nhiều rau củ quả để làm giảm quá trình hấp thu đường và hấp thu mỡ; ăn thực phẩm giàu chất đạm thịt, cá, trứng, sữa... để tăng tạo khối cơ và cung cấp các chất khoáng như sắt, kẽm, calci, vitamin b12.
Chủ đề liên quan:
dinh dưỡng Phổ biến kiến thức phương pháp giảm cân Thường thức về sức khỏe tư vấn