Việc ăn uống của người mẹ là yếu tố quyết định cho sự phát triển của thai nhi, nhau thai, khối lượng máu, sự tạo sữa trong thời kỳ cho con bú và sự lớn lên của trẻ sau khi được sinh ra.
Việc ăn uống của người mẹ là yếu tố quyết định cho sự phát
triển của thai nhi, nhau thai, khối lượng máu, sự tạo sữa trong thời kỳ cho con
bú và sự lớn lên của trẻ sau khi được sinh ra. Vì vậy, trong thời kỳ có
thai, người mẹ cần được cung cấp đầy đủ
năng lượng và các chất dinh dưỡng.
Về chế độ ăn uống
Chế độ ăn cần tăng thêm năng lượng: Khi
có thai, ngoài nhu
cầu năng lượng cho người mẹ còn phải cung cấp năng lượng cho sự phát triển của
thai nhi, nhất là thời kỳ 3 tháng cuối (2.550Kcal/ngày), như vậy, năng lượng
tăng thêm hơn người bình thường mỗi ngày 350 Kcal (khoảng 1 bát cơm đầy).
Bổ sung chất đạm (protein) và chất béo: Ngoài cơm (và các
lương thực khác) ăn đủ no, bữa ăn cho bà mẹ
có thai cần có thức ăn để bổ sung
chất đạm và chất béo giúp cho việc xây dựng và phát triển cơ thể của trẻ. Trước
hết, cần chú ý đến các nguồn chất đạm từ các thức ăn thực vật như đậu tương, đậu
xanh, các loại đậu khác, vừng và lạc.
Đây là những thức ăn có lượng đạm cao, lại có lượng chất béo nhiều giúp tăng
năng lượng bữa ăn và giúp hấp thu tốt các nguồn vitamin tan trong dầu. Chất đạm
động vật đáng chú ý là từ các loại thủy sản như tôm, cua, cá, ốc… và có điều
kiện nên cố gắng có thêm thịt, trứng, sữa… Nhu cầu chất đạm cho phụ nữ trong
thời kỳ mang thai 3 tháng cuối: 70g/ngày (đạm có chất lượng cao từ thịt, cá,
trứng tương đương như sau: 100g thịt lợn, 150g cá hay cua, thêm 100g lạc, 1 quả
trứng/ngày là đủ…). Nếu có điều kiện các bà mẹ nên uống bổ sung sữa (400-500ml)
tốt nhất sữa bà bầu hoặc sữa đậu nành.
Khi mang thai bà mẹ nên bổ sung DHA, một chất béo không no
cần thiết cho sự hoàn thiện hệ thần kinh, đặc biệt là thị giác. Các bà mẹ có
thai bổ sung DHA có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch của bé và giúp bé chống
chọi với cảm lạnh. DHA có nhiều trong dầu cá, cá và thủy sản. Một số sản phẩm
sữa bà bầu hiện nay cũng bổ sung thành phần DHA.
Bổ sung các chất khoáng
Các chất khoáng và vi khoáng là các vi chất chỉ cần một
lượng nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng.
Canxi: Khi mang thai, bên cạnh nhu cầu canxi bình thường để
cho hoạt động của cơ thể và để giúp xương vững chắc, người mẹ cần thêm canxi để
cung cấp cho thai nhi tạo ra xương và mầm răng. Cơ thể người mẹ cần một lượng
canxi gấp đôi lúc bình thường (nhu cầu 1.000mg/ngày). Thai càng lớn càng đòi
hỏi phải cung cấp nhiều canxi. Nếu cơ thể người mẹ không đáp ứng được sẽ lâm
vào tình trạng thiếu hụt canxi. Vì thế, trong ăn uống nên chú ý tới các loại
thức ăn có nhiều canxi, phospho như tôm, cua, cá, trứng, phomai, sữa, các hạt
họ đậu, rau xanh…
Sắt: Khi
có thai, người mẹ thiếu máu do thiếu sắt sẽ có
nhiều ảnh hưởng xấu tới thai nhi, có thể gây sảy thai, đẻ non, sinh con có cân
nặng sơ sinh thấp và tai biến sản khoa như chảy máu sau sinh. Nguồn sắt từ cơ
thể mẹ sẽ truyền sang con, điều này không chỉ tăng cường tốt sức khỏe cho mẹ mà
còn là một cách có hiệu quả phòng chống thiếu máu do thiếu sắt cho trẻ em sớm
ngay từ thời kỳ bào thai. Sắt có nhiều trong thịt, cá, trứng, các loại nhuyễn
thể, ngũ cốc, đậu đỗ các loại và vừng, lạc. Sắt do thức ăn cung cấp thường
không đáp ứng được nhu cầu sắt gia tăng trong suốt quá trình mang thai. Vì lý
do này, bà mẹ
có thai cần được uống bổ sung viên sắt theo hướng dẫn của thầy
Thu*c.
Kẽm: Kẽm tham gia vào nhiều chuyển hóa quan trọng trong cơ
thể. Phụ nữ mang thai cần 10-20mg kẽm mỗi ngày. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là
thịt, cá, đặc biệt là hải sản. Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng
thấp và khó hấp thu hơn.
Bổ sung các vitamin
Cần đặc biệt chú ý tới vitamin A, D, B1 và acid folic, các
vitamin này cần thiết cho các chức năng chuyển hóa bình thường của cơ thể, đồng
thời tham gia vào quá trình xây dựng tế bào và tổ chức, chúng cũng giúp phòng
chống táo bón.
Vitamin A: Người phụ nữ
có thai cần được đảm bảo đủ vitamin
A trong suốt thời kỳ mang thai. Sau khi sinh, người mẹ cần đủ vitamin A để cung
cấp vitamin A cho con qua sữa. Sữa, gan, trứng… là nguồn cung cấp vitamin A
động vật, dễ dàng được hấp thu và dự trữ trong cơ thể để dùng dần. Các loại rau
xanh, nhất là rau ngót, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà
rốt, đu đủ, xoài, bí đỏ là những thức ăn có nhiều caroten còn gọi là tiền
vitamin A, vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A.
Vitamin D: vitamin D giúp cho sự hấp thu và chuyển hóa các
khoáng chất canxi, phospho. Khi mang thai nếu cơ thể thiếu vitamin D dễ gây các
hậu quả như trẻ còi xương ngay trong bụng mẹ vì chỉ khoảng 20% lượng canxi
trong thức ăn được hấp thu. Nhu cầu
vitamin D 200 IU/ngày
Vitamin B1: Vitamin B1 là yếu tố cần thiết để chuyển hóa
glucid. Ngũ cốc và các loại họ đậu là những nguồn vitamin B1 tốt. Để có đủ
vitamin B1 nên ăn gạo không xay sát kỹ quá, bị mục, bị mốc, nên ăn nhiều đậu đỗ
là cách tốt nhất bổ sung đủ vitamin B1 cho nhu cầu của cơ thể và chống được
bệnh tê phù.
Acid folic (B9): cần thiết cho sự phát triển hệ thần kinh
trung ương của thai, đặc biệt là trong những tuần lễ đầu tiên. Nếu thiếu có thể
gây nên khuyết tật ống thần kinh. Trong thời gian mang thai, cơ thể người mẹ
cần B9 gấp nhiều lần so với lúc bình thường, trong khi đó với dưỡng chất này cơ
thể lại không tích trữ được vì vậy cần phải cung cấp đều đặn. Vitamin B9 có
nhiều trong các loại rau xanh lá to, màu xanh đậm như: mồng tơi, cải xanh, cải
cúc, lạc, hạt dẻ...
Ngoài ra, một số vitamin khác như vitamin C làm tăng sức đề
kháng của cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt từ thức ăn góp phần phòng chống thiếu máu
do thiếu sắt. Vitamin C có nhiều trong quả chín, rau xanh. Vitamin C dễ bị hao
hụt nhiều trong quá trình nấu nướng nên hoa quả chín, nước ép trái cây, rau
xanh sẽ là nguồn cung cấp quan trọng.
TS.BS. Cao Thị Hậu