Phóng viên báo SK&ĐS đã có cuộc trao đổi với TS. BS. Nguyễn Công Hựu, Trưởng khoa Ngoại Tim mạch, Trung tâm tim mạch bệnh viện E về bệnh lý ở trẻ em và phương pháp phẫu thuật mang lại những ích lợi vượt trội cho người bệnh.
thường xuất hiện ngay sau sinh, diễn biến lõm nặng dần theo tuổi, biểu hiện rõ khi trẻ đến tuổi dậy thì.
Nhận biết bệnh chỉ cần khám lâm sàng quan sát thấy lõm hơn bình thường. Có nhiều loại hình lõm ngực từ đơn giản đến phức tạp tuỳ theo vị trí, độ sâu và hình thái hố lõm. Một cách đơn giản nhất chia 2 loại: lõm đồng tâm (hỗ lõm nằm trên xương ức), lõm lệch tâm (hỗ lõm nằm cạnh xương ức, bên phải hoặc trái). Trong chuyên khoa sâu, các nhà khoa học đã xây dựng nhiều cách phân loại phục vụ cho mục đích đánh giá, tiên lượng và can thiệp phẫu thuật. Các phương tiện chẩn đoán hình ảnh giúp các nhà chuyên môn đánh giá mức độ nặng của tình trạng lõm.
kém phát triển thể chất, trẻ khó có thể phát triển để có một cơ thể cường tráng. Các biểu hiện lâm sàng khác có thể gặp trong những trường hợp bị lõm nặng: trẻ nhanh mệt khi chơi các môn thể thao hay các hoạt động có tính chất gắng sức; hay mệt mỏi, hồi hộp. Nhịp tim nhanh, tim lệch hẳn về bên trái khi bị chèn ép nhiều.
Đặc biệt, biến dạng ảnh hưởng xấu đến tâm sinh lý. Trẻ em thường sống khép mình, hạn chế các hoạt động xã hội, hạn chế trong giao tiếp, không dám tham gia các hoạt động thể thao có tính chất tập thể.
Bệnh nên được ở trẻ em, trước tuổi trưởng thành khi lồng ngực đang còn phát triển sẽ cho kết quả tốt. Bác sỹ Donald Nuss (bệnh viện trẻ em “Children's Hospital of The King's Daughters”, bang Virginia Hoa Kỳ ) – người đã tìm ra phương pháp mổ ít xâm lấn ưu việt nhất cho đến nay để chữa bệnh này chủ trương cho trẻ từ 6 tuổi, một số tác giả khác lựa chọn sớm hơn khi trẻ từ 3 tuổi. Các nhà đều thống nhất thời điểm tốt nhất ở lứa tuổi trước dậy thì. Đối với tuổi trưởng thành, người lớn độ tuổi trung niên kết quả cũng rất khả quan. Tuy nhiên đối với người lớn do khung xương đã phát triển nên tỷ lệ bị lõm lại sau cao hơn so với ở trẻ. Mùa hè khi trẻ được nghỉ học là thời điểm thuận lợi cho việc nâng khung lồng ngực.
đi trước.
Phương pháp điều trị đã được các nhà phẫu thuật nghiên cứu và thực hiện hàng trăm năm nay. Các biện pháp phẫu thuật trước kia như cắt bỏ phần xương lõm chèn ép, tạo khung kéo bên ngoài, phẫu thuật Ravitch cắt sụn sườn 2 bên … đều có nhiều hạn chế về kết quả, phẫu thuật nặng nề kém thẩm mỹ.
Phim chụp X quang của bệnh nhân sau phẫu thuật
Năm 1998, sau nhiều năm tìm tòi nghiên cứu, Donal Nuss và cộng sự đã công bố công trình 10 năm kinh nghiệm phẫu thuật điều trị bằng phương pháp ít xâm lấn sử dụng thanh kim loại uốn cong, luồn vào trong lồng ngực nâng toàn bộ bản xương lõm lên cao dưới sự trợ giúp của nội soi và các dụng cụ chuyên dụng. Phương pháp đạt mục tiêu nâng lồng ngực giải phóng chèn ép tim phổi, không phải cắt bỏ tổ chức, kỹ thuật dễ thực hiện và đặc biệt đạt hiệu quả thẩm mỹ cao nhất do chỉ sử dụng đường rạch da nhỏ khoảng 2cm phía sau không để lại di chứng vết sẹo dài, xấu trước ngực của các phương pháp mổ trước đây. Công trình công bố đã tạo ra cuộc cách mạng trong phẫu thuật loại bệnh lý này, hàng trăm nhà khoa học đến học tập và phổ biến ra khắp thế giới. Phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn, sử dụng thanh kim loại uốn cong đặt trong lồng ngực nâng bản xương lõm điều trị bệnh được đặt tên “Phẫu thuật Nuss”, ghi nhận công lao của người đã khai sinh ra nó.
Qua hơn 20 năm kể từ công trình đầu tiên được công bố, đến nay Nuss trở thành phương pháp mổ tiêu chuẩn, trả lại cuộc sống bình thường cho các bệnh nhân không may có lồng ngực bị lõm bẩm sinh. Các công trình công bố sau này cho thấy phương pháp an toàn, hiệu quả hơn hẳn so với các phương pháp trước đây.
Chủ đề liên quan:
bẩm sinh điều trị điều trị bệnh khổng lồ lõm ngực bẩm sinh lồng ngực người khổng lồ nội soi phẫu thuật phẫu thuật nội soi phẫu thuật nội soi lồng ngực trị bệnh