Thành công của công tác dân số trong thời gian qua đã làm cho tỷ lệ nhóm phụ thuộc trẻ (từ 0-14 tuổi) của việt nam giảm mạnh. điều này góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, là cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, thanh niên, sử dụng nguồn lao động dồi dào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chính điều này cũng dẫn tới tỷ lệ nhóm dân số "trong độ tuổi lao động" (từ 15-64 tuổi) tăng nhanh. nếu năm 1979, nhóm này chỉ chiếm 53% tổng dân số, thì đến năm 2007 đã đạt 67,31% và năm 2019 là 68%.
Và kể từ năm 2007, việt nam đã chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu "dân số vàng", có nghĩa là tình trạng số người trong độ tuổi lao động nhiều gấp 2 lần tổng số người dưới 15 tuổi (phụ thuộc trẻ) và số người từ 65 tuổi trở lên (phụ thuộc già). tức là bình quân hai người lao động nuôi một người phụ thuộc.
Dân số có cơ cấu "vàng" khi tỉ lệ những người trong độ tuổi (15-64) chiếm 66% trở lên.
Pgs.ts lưu bích ngọc, chánh văn phòng hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực (bộ giáo dục và đào tạo), cho biết cơ cấu dân số "vàng" chỉ xuất hiện duy nhất trong lịch sử phát triển dân số khi trải qua thời kỳ quá độ và sau đó không lặp lại. khi đó, dân số trong độ tuổi lao động đạt mức cao nhất cả về con số tương đối (tỷ lệ) lẫn con số tuyệt đối (số lượng).
Cơ cấu "dân số vàng" tạo cơ hội cho tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm trong tương lai. tuy nhiên, qua giai đoạn này, dân số chuyển sang dân số già, sức lao động, sức sản xuất kém đi, lợi thế dân số không còn nữa.
Cơ hội mà thời kỳ dân số "vàng" được phát huy khi tỷ lệ lao động có việc làm cao.
Vấn đề là khoảng cách giữa hai giai đoạn này dài hay ngắn phụ thuộc việc điều chỉnh mức sinh của mỗi nước cũng như tùy thuộc vào tốc độ già hóa dân số.
Ở việt nam, chỉ 4 năm (2011) sau khi bước vào giai đoạn cơ cấu dân số vàng, thì cũng bước vào thời kỳ già hoá dân số. giai đoạn dân số "vàng" dự báo kéo dài từ 30- 40 năm, nghĩa là sẽ kết thúc vào khoảng giữa thế kỷ 21, trong khi đó, tốc độ già hoá dân số của nước ta lại tăng phi mã, thuộc top cao nhất thế giới.
Quyết định 588/qđ-ttg về điều chỉnh mức sinh đến năm 2030 được kỳ vọng là cơ hội để trong tương lai, việt nam sẽ có một thế hệ lao động mới, kéo dài cơ cấu dân số vàng, bảo đảm nguồn lực cho phát triển đất nước. ảnh: n.lê
Do đó, điều chỉnh mức sinh, duy trì vững chắc mức sinh thay thế (mỗi phụ nữ có trung bình khoảng 2,0-2,1 con) là giải pháp then chốt để kéo dài "tuổi thọ" của giai đoạn dân số vàng; đồng thời làm chậm quá trình "già hóa dân số". điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi để chuẩn bị các nền tảng nâng cao chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và khai thác tối đa giá trị của dân số vàng.
Duy trì mức sinh thay thế và giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, địa phương sẽ góp phần ổn định quy mô dân số, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực cho phát triển đất nước. kết quả này giúp tránh được những hiệu ứng không tích cực của cả hai trạng thái: quy mô dân số quá đông, mật độ dân số quá cao do mức sinh tăng trở lại hoặc quy mô dân số giảm sớm, giảm nhanh nếu mức sinh giảm xuống dưới mức thay thế thì rất khó đưa mức sinh tăng trở lại, dù có đầu tư lớn cho chính sách khuyến sinh.
Việc chủ động duy trì mức sinh hợp lý là để trong tương lai, việt nam sẽ có được một quy mô dân số phù hợp với diện tích lãnh thổ, đảm bảo sự cân đối, hài hòa giữa các độ tuổi; duy trì tương đối ổn định tỷ lệ dân số trong tuổi lao động, kéo dài giai đoạn cơ cấu "dân số vàng"; làm chậm lại thời gian chuyển đổi từ giai đoạn "già hóa dân số" sang "dân số già", có cơ hội phát triển các dịch vụ an sinh xã hội và phát huy, chăm sóc người cao tuổi tốt hơn; tạo điều kiện thuận lợi để khống chế sự gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, sớm đưa trở lại mức cân bằng tự nhiên.
Ngày 28/4/2020, thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 588/qđ-ttg phê duyệt "chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030". quyết định này đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dưới 2 con); giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao; đồng thời duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế.
Để thực hiện quyết định 588/qđ-ttg, ngày 5/6, bộ y tế ban hành quyết định 2324/qđ-byt ban hành kế hoạch hành động thực hiện chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030.
Chính sách dân số mới này của việt nam là cơ hội để trong tương lai, việt nam sẽ có một thế hệ lao động mới, kéo dài cơ cấu dân số vàng, bảo đảm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Chủ đề liên quan:
chìa khoá dân số dân số vàng điều chỉnh Điều chỉnh mức sinh hợp lý kéo dài mức sinh mức sinh hợp lý thời kỳ tuổi thọ