Là cơ sở đánh giá bệnh và các tình huống chẩn đoán. Tuy nhiên người bệnh thường không có khả năng mô tả chính xác các triệu chứng vì họ thường lo lắng quá mức và hạn chế về hiểu biết. Do vậy muốn phát hiện được những triệu chứng chính xác cần hướng bệnh nhân vào những câu hỏi phục vụ cho mục đích chẩn đoán. Đầu tiên cần làm cho bệnh nhân có cảm giác thoải mái,cần lắng nghe tìm hiểu lý do bệnh nhân đi khám bệnh.
Vị trí: Vùng thắt lưng, sườn lưng, đau lan xuyên, xuống dưới, ra trước có khi lan ra bộ phận Sinh d*c ngoài.
Khởi phát đột ngột, dữ dội, hoặc xuất hiện khi bệnh nhân hoạt động nhiều (sau lao động nặng hoặc đi xa).
Vùng thắt lưng: co cứng khối cơ cột sống, cơ thắt lưng chậu, nửa bụng bên đau co cứng, không có cảm ứng phúc mạc.
Do ứ căng đột ngột ở đài bể thận phía trên chỗ tắc. Có thể do sỏi, do co thắt, do viêm nhiễm. Dùng các Thu*c giảm đau, giãn cơ trơn, nằm nghỉ, bệnh nhân sẽ đỡ hoặc hết đau.
Đau âm ỉ vùng lưng hàng ngày, hàng tuần cơn đau được phát hiện khi sờ nắn vào vùng hố thắt lưng hoặc bệnh nhân ở trong tư thế đứng.
Có khi là cảm giác khó chiệu không thoải mái ở vùng trên xương mu, hậu quả của viêm bàng quang cấp hoặc viêm bàng quang kẽ hoặc tắc nghẽn không hoàn toàn.
Cơn đau do hiện tượng trào ngược nước tiểu. Đau chói từ phía dưới dâng cao dần lên hố thắt lưng. Cơn đau thường xảy ra trước hoặc trong khi đi tiểu.
Đau tuyến tiền liệt: Cảm giác đau sâu vùng hậu môn và tầng sinh môn, cảm giác đau thường tăng lên ở tư thế ngồi.
Các cơn đau mãn tính thường do bệnh giãn tĩnh mạch thừng tinh, ứ nước màng tinh hoàn hoặc thoát vị bẹn.
Nguyên nhân: Bàng quang bị kích thích do viêm, do dị vật, do u phì đại tuyến tiền liệt kích thích vùng cổ bàng quang. Có khi do u tiểu khung, các bệnh lý trong tiểu khung hoặc do sỏi niệu quản sát bàng quang. Hoặc bàng quang tăng co bóp do nguyên nhân thần kinh, bàng quang giảm dung tích.
Đái khó lúc khởi đầu: Bệnh nhân không đái được ngay, cố rặn khi đái, tia nước tiểu yếu, có khi không thành tia nỏ giọt xuống chân. Thời gian đi tiểu lâu. Sau khi tiểu xong không cảm giác thoải mái.
Nguyên nhân: Các bệnh lý vùng cổ bàng quang và niệu đạo như u phì đại tuyến tiền liệt. K tuyến tiền liệt, co thắt cổ bàng quang, xơ cứng cổ bàng quang, sỏi bàng quang, hẹp niệu đạo, bàng quang thần kinh.
Giai đoạn sau: Bàng quang mất bù, cơ bàng quang nhão, ứ đọng nước tiểu nhiễm khuẩn niệu. Nguy cơ viêm bể thận ngược dòng, nước tiểu ứ đọng trong bàng quang, trào ngược lên thận.
Là hiện tượng có nước tiểu trong bàng quang nhưng bệnh nhân không thể nào đái ra được (cần phân biệt với vô niệu: không có nước tiểu trong bàng quang).
Rỉ nước tiểu liên tục: Rối loạn chức năng cơ thắt bàng quang niệu đạo do các tổn thương ở não hoặc sau phẫu thuật tuyến tiền liệt làm tổn thuơng hệ thống cơ thắt vân niệu đạo.
Cần phân biệt với rỉ nước tiểu liên tục ở trẻ em do niệu quản lạc chỗ hoặc rò nước tiểu bàng quang *m đ*o.
Phân biệt nước tiểu đỏ không phải tiểu ra máu do màu đỏ của thức ăn đồ uống do Rifampiam phenothiarim, pyridium. Tiểu ra huyết cầu tố do vỡ hồng cầu.
Cần xác định vị trí chảy máu tiểu đường tiết niệu: xơ bộ bằng quan sát nước tiểu. Nghiệm pháp ba cốc:
Các vi khuẩn thường gặp là: E.Coli, Klebsiella, enterobacter, tụ cầu vàng, proteus, pseudomonas Aeruginosa, liên cầu nhóm B.
Rối loạn chức năng sinh nam mà danh từ thường gọi là bất lực được biểu hiện dưới nhiều hình thức: mất ham muốn, không có khả năng cương dương hoặc duy trì cương dương. Không có khả năng phóng tinh, khả năng thực hiện khoái cảm và xuất tinh sớm.
Hỏi tiền sử bệnh: Các bệnh nội khoa, ngoại khoa từ trước và hiện tại. Có nhiều bệnh nội khoa ảnh hưởng đến hệ tiết niệu: lao, đái đường, cao huyết áp.
Gầy sút nhanh, thể trạng suy sụp: Thường gặp ở bệnh nhân tiết niệu. Chủ quan người bệnh biết giảm cân nhanh mỏi mệt chán ăn, mất ngủ. Thiếu máu mất nước, điện giải như trong các bệnh viêm đài bể thận, ứ nước, ứ mủ thận, suy thận, ure máu cao, ung thư.
Sốt cao kéo dài 38 – 39,5 độ C , có cơn rét run kèm theo đau thắt lưng hoặc rối loạn tiểu tiện, thường là biểu hiện viêm nhiễm khuẩn tiết niệu. Bao gồm: viêm thận bể thận, viêm apxe tiền liệt tuyến, viêm tinh hoàn, mào tinh hoàn. Những cơn sốt hay đợt sốt kéo dài không giải thích được nguyên nhân cũng có thể là dấu hiệu của ung thư thận.
Nguyên tắc: Khám toàn diện, khám cả hệ tiết niệu và hệ Sinh d*c, sờ nắn là chủ yếu và đánh giá thành bụng.
Phát hiện: Điểm đau, phát hiện khối u vùng thắt lưng, vùng bàng quang, tiền liệt tuyến với các tính chất: kích thước, hình dáng, mật độ, bề mặt, bờ di động theo nhịp thở và với các bộ phận xung quanh.
Khám bên nào thì người thầy Thu*c đứng cùng bên với người bệnh, bàn tay bên đối diện đặt vào vùng thận (góc sườn lưng). Bàn tay kia đặt phía trên bụng song song với bờ sườn hay dọc theo bờ ngoài cơ thẳng to. Bàn tay dưới áp sát vùng sườn lưng, bàn tay trên ấn xuống bình thường không có cảm giác gì.
Nếu thận to sẽ có cảm giác một khối u chạm xuống bàn tay dưới: nghiệm pháp chạm thắt lưng dương tính.
Bàn tay dưới vùng sườn lưng hất nhẹ lên từng đợt và bàn tay trên bụng ấn nhẹ xuống. Nếu thận to sẽ cảm thấy thận bập bềnh giữa hai bàn tay: nghiệm phấp bập bềnh thận dương tính.
Có cách khám một bàn tay: Ngón tay cái phía trước, bốn ngón kia phía sau ép vào vùng sườn lưng. Nếu thận to khi bệnh nhân thở sẽ thấy thận di động lên xuống trong lòng bàn tay. Thường áp dụng khi khám thận trẻ em.
Bàng quang bình thường không sờ thấy nếu như nó có dưới 150 ml nước tiểu. Khi bàng quang căng vào khoảng 500 ml có thể nhìn thấy ở bệnh nhân gầy: thấy bàng quang căng là một khối ngay trên xương mu dưới rốn. Có ranh giới rõ rệt, gõ đục, khối căng ấn vào gây cảm giác buồn đi tiểu.
Thăm trực tràng không quên đánh giá cơ thắt hậu môn, khám toàn bộ vùng niêm mạc trực tràng, túi cùng Douglas.
U phì đại lành tính tiền liệt tuyến: Thăm trực tràng sờ thấy khối, mật độ mềm đều căng, ranh giới rõ. KHối u có thể to (đường kính: 4 – 5 cm, hay hơn nữa)
Phân biệt ung thư tiền liệt tuyến: tiền liệt tuyến có nhân rắn hay là một khối u rắn chắc không cân đối, ranh giới không rõ ràng, không di động.
Thăm trực tràng là động tác phối hợp khi thăm khám tiết niệu để phát hiện dấu hiệu bệnh lý ở bộ phận tiết niệu thấp như tiền liệt tuyến, túi tinh, u bàng quang, rỏ bàng quang trực tràng, rò niệu đạo trực tràng.
Những dấu hiệu bệnh lý vùng bẹn bìu thường gặp khi cấp cứu hoặc khi khám bệnh hàng ngày. Những thương tổn có khi tại chỗ vùng bẹn bìu thuộc hệ Sinh d*c, có thể là dấu hiệu những thương tổn từ xa như hệ tiết niệu, hệ tiêu hoá phúc mạc.
Chủ yếu là khám khi bệnh nhân có bìu to, sờ nắn là động tác chủ yếu bằng ngón tay cái đối chiếu với 3 – 4 ngón tay của một bàn tay hay hai bàn tay cầm cả hai bên.
Bìu và ống bẹn có liên quan về phôi thai, giải phẫu nên khi có dấu hiệu bệnh lý phát hiện thấy ở bìu bao giờ cũng phải chú ý đến vùng bẹn.
Dấu hiệu kẹp màng tinh hoàn Sebileau: bình thường lớp da và lớp màng tinh hoàn có thể kẹp được giữa hai ngón tay. Khi có nước trong màng tinh hoàn ta không thể làm được dấu hiệu này và khi tinh hoàn quá to ta cũng không thể làm được dấu hiệu này.
Sờ mào tinh hoàn và tinh hoàn (Dấu hiệu Chevassu): bình thường sờ được mào tinh hoàn như cái mũ chụp lên tinh hoàn. Mào tinh hoàn mềm nhẵn không đau, tinh hoàn mềm hình bầu dục nhẵn không đau.
Sờ thừng tinh: Như một sợi dây chắc chắn nhẵn lăn dưới tay và các mạch máu tĩnh mạch cũng mềm dễ bóp dẹt.
Lỗ bẹn nông ngoài gai xương mu 0,5 cm lỗ bình thường không lọt đầu ngón tay trỏ. Lỗ bẹn rộng có thể ruột chui xuống bìu. Ngoài ra còn có các phương pháp khác bổ sung xác định thương tổn.
Soi ánh sáng: Dùng đèn pin chiếu sáng ánh sáng xuyên qua hay không chứng tỏ bìu chứa tổ chức đặc hay lỏng.
Định lượng creatinin máu là xét nghiệm rất có giá trị: bình thường < 100 mmol/l cho biết rất chính xác chức năng thận, định lượng ure máu bt < 8 mmol/l
Trong trường hợp suy thận cần thiết làm điện giải đồ bao gồm: Na , K , Ca , Cl-, dự trữ kiềm, pH máu.
Độ thanh thải creatinin nội sinh ở người lớn trưởng thành là 60 ml/phút, đối với mỗi thận chỉ số này giảm dần theo tuổi.
Suy thận khi độ thanh thải này < 20 ml/mn, và < 10 ml/mn, cần thiết phải lọc máu nhân tạo. Để đánh giá chức năng từng thận cần phải luồn sonde lên từng niệu quản để lấy nước tiểu và nguy cơ gây nhiễm khuẩn rất lớn nên xét nghiệm này ít được sử dụng.
Dựa vào chụp niệu đồ tĩnh mạch. Qua hình ảnh Thu*c cản quang: đậm độ Thu*c tập trung ở từng thận, chiều dày nhu mô thận người ta xác định một cách tương đối chức năng từng thận.
Để xác định có nhiễm khuẩn nước tiểu số lượng vi khuẩn > 100.000/ ml và bạch cầu nước tiểu tăng cao, có bạch cầu thoái hoá.
Khi xét nghiệm thấy bạch cầu nước tiểu và cấy nước tiểu âm tính có thể do các lý do: hoặc là trước khi cấy nước tiểu đã dùng kháng sinh hoặc là một số loại vi khuẩn phải nhuộm hoặc chuẩn bị một cách đặc biệt để nhận biết chúng. Trước những trường hợp đái mủ, cấy nước tiểu nhiều lần âm tính cần phải tìm vi khuẩn lao.
Là một xét nghiệm không nguy hiểm, không đau và rất giá trị trong thăm dò hình thái hệ tiết niệu. Luôn luôn là xét nghiệm đầu tiên được lựa chọn trong thăm dò, cho nhiều thông tin cần thiết nhất là về hình thái học.
Cho đến nay UIV vẫn là phương pháp đơn giản và cơ bản để đánh giá chức năng bài tiết của thận, hình thể bình thường hoặc bệnh lý của các đài thận, bể thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo.
1 phim sau 2 – 3 phút cho phép thấy được hình ảnh của nhu mô thận và qua đó đánh giá chức năng 2 thận.
Có thể dùng 2 quả bóng ép vào niệu quản ở đoạn khớp cùng chậu để giữ Thu*c cản quang ở đài bể thận cho phép nhìn được rõ hơn.
Chụp phim toàn thể niệu quản, đòi hỏi phải chụp nhiều phim vì niệu quản rất ít khi nhìn rõ trên 1 phim.
Trong những trường hợp đặc biệt thận ngấm Thu*c chậm có thể chụp những phim ở thì muộn sau 60’, 90’, 120’… hoặc chụp UIV nhỏ giọt tĩnh mạch liều Thu*c tăng gấp 2 – 3 lần bình thường.
Được tiến hành bằng soi bàng quang, tìm lỗ niệu quản bên định chụp luồn ống thông lên niệu quản, bơm Thu*c 12 – 15 ml tốt nhất là bơm theo dõi trên màn huỳnh quang. Chụp những phim ở những hình ảnh cần thiết.
Chụp UPR là thủ thuật dễ gây nhiễm trùng, đặc biệt trong những trường hợp tắc nghẽn. Do vậy đòi hỏi phải tuyệt đối vô khuẩn.
Cho phép phân tích một cách rõ nét các khối u thận, phân biệt nang thận và cho các thông tin để chẩn đoán u ác tính ở thận.
Ở vùng tiểu khung: cho những hình ảnh rất rõ u bàng quang và tiền liệt tuyến tuy nhiên những hình ảnh xâm lấn tại chỗ và đặc biệt là các hạch thì không chắc chắn.
Tuy nhiên xét nghiệm này có nhiều trở ngại: rất khó thực hiện, gây đau và đọc kết quả cũng không dẽ dàng, nhất là ở những bệnh nhân có tuổi, có nguy cơ tai biến về hô hấp tuần hoàn.
Chụp đồng vị phóng xạ hệ thống xương thường được sử dụng để phát hiện các ổ di căn ung thư vào xương, đặc biệt là ung thu tiền liệt tuyến.
Tuy nhiên có nhiều hạn chế: Đòi hỏi phải chụp nhiều phim, tiêm một số lượng lớn Thu*c cản quang. Đặc biệt. là phải chọc vào thân một động mạch lớn, nó sẽ gây đau và nguy hiểm cho bệnh nhân.
Nghiên cứu sự liên quan giữa u thận và tĩnh mạch chủ dưới. Phát hiện thâm nhiễm ung thư vào tĩnh mạch chủ.
Chỉ định: có rất nhiều loại ống thông niệu đạo và niệu quản được sủ dụng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý đường tiết niệu.
Ống thông đặt vào bàng quang để lấy nước tiểu làm xét nghiệm, đo lượng nước tiểu cặn trong bàng quang, bơm Thu*c cản quang vào niệu đạo, bàng quang để chụp…
Kích thước đường kính ống thông thường được đánh số theo chỉ số French (Fr). Ống thông số 3 Fr có đường kính là 1 mm, 1 Fr = 0,33 mm đường kính. Cỡ ống thông trung bình để đặt cho người lớn trưởng thành là từ 18 – 22 Fr.
Giải phẫu bệnh học và tế bào học: thường được sử dụng trong chẩn đoán ung thư bàng quang và tiền liệt tuyến.
Chủ đề liên quan:
biểu hiện dấu hiệu khai thác những triệu chứng lâm sàng ngoại khoa ngoại khoa triệu chứng