Ở nước ta có các tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Trong đó có tập Phụ đạo xán nhiên tổng luận về kinh nguyệt đến thai mạch, Tọa thảo lương mô nêu điều thai huấn đến cách tính thai, và những phần liên quan phụ khoa rải rác trong tập Hành giản trân nhu.
Thường dùng phép an thai khi phụ nữ bị động thai. phụ nữ có thai, thai động cảm thấy như thai sa xuống, hoặc hơi mỏi lưng, đau bụng, trong âm hộ có chút ít huyết dịch chảy ra thì gọi là thai động không an. nếu đau và huyết ra nhiều, mỏi lưng, đau bụng dữ dội, mà sẩy thai thì gọi là đọa thai hoặc tiểu sản. thường khi có thai trong 3 tháng, thai nhi chưa hình thành, gọi là đọa thai; ngoài 3 tháng đã thành hình gọi là tiểu sản hoặc bản sản. nếu sau khi sẩy thai hoặc đẻ non và lần sau có thai đúng kỳ lại sẩy, thì gọi là hoạt thai.
Phụ nữ có thai mà thai động không an, thường là dấu hiệu sẽ sẩy thai hoặc đẻ non. Trong lúc mang thai mà âm hộ ra huyết hoặc huyết nhỏ ra từng giọt dầm dề không dứt, hiện tượng đó gọi là thai lậu, người xưa gọi là bào lậu hoặc lậu thai. Nếu lậu huyết lâu ngày cũng có thể làm cho thai không vững, thậm chí đến đọa thai hoặc tiểu sản.
Khí huyết hư nhược: Phụ nữ có thai thể chất vốn yếu hoặc sau khi có thai bị bệnh làm cho khí huyết hư suy, mạch xung - nhâm yếu, không điều hòa giữ gìn được huyết để nuôi dưỡng thai. Triệu chứng: Có thái huyết ra từng giọt, lưng mỏi, bụng đau trướng, đau hoặc không đau, sắc mặt xanh nhợt, da dẻ khô khan, đầu nặng choáng, tinh thần mỏi mệt. Nói không ra tiếng, sợ lạnh, miệng nhạt không muốn ăn, nặng thời thai động không an. Huyết ra nhiều, thai muốn sa xuống, đi tiểu luôn, lưỡi đỏ nhợ, rêu trắng mỏng. Mạch phù hoạt vô lực hoặc trầm nhược.
Tỳ hư: Tỳ khí hư nhược không thể vận hóa tinh vi của thủy cốc để sinh huyết, khiến mạch xung, nhâm hao tổn, không thể nuôi thai. Triệu chứng: Có thai mà thai động sau xuống, lưng mỏi, bụng trướng, hoặc đau bụng ra huyết, sắc mặt vàng nhợt, mặt hơi sưng nặng, tinh thần mỏi mệt yếu sức, tay chân mát lạnh, miệng nhạt nhớt. Ngực tức không muốn ăn, đại tiện lỏng, khí hư, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch hư hoạt.
Thận hư: Bẩm thụ vốn yếu, tiên thiên bất túc, thận khí hư kém hoặc do phòng dục không kiêng dè, T*nh d*c bừa bãi làm hao tổn thận khí, không đủ sức để giữ thai. Người bệnh lưng vốn đã mỏi chân yếu, khi có thai bị động thai không an, hoặc âm hộ ra huyết, bụng trướng lưng mỏi càng tăng nhiều hơn. Đầu choáng tai ù, đái són, hoặc tiểu luôn luôn, mạch xích vi nhược, hoặc hư hoặc đại.
Can uất khí trệ: Thất tình uất kết, đường khí không lưu thông, thai khí bị ngăn trở không an. Triệu chứng: Bụng đau hoặc âm hộ ra huyết, tinh thần uất ức, sườn trướng đau, ợ hơi ăn kém, hoặc nôn đắng, mửa chua, mạch huyền.
Âm hư huyết nhiệt: Vốn đã âm hư hỏa thịnh, hoặc uống Thu*c cay nóng, ráo huyết nhiều quá, nhiệt độc ẩn nấp ở mạch xung, nhâm, bức huyết khiến thai mất chỗ nuôi dưỡng. Triệu chứng: Có thai mình gầy sắc khô, phiền nhiệt, miệng ráo, hai gò má đỏ bừng, lòng bàn tay bàn chân nóng, bụng đau hoặc kiêm ra máu nhỏ giọt, lưỡi đỏ không rêu.
Vấp ngã sái trật tổn hại đến thai khí. Triệu chứng: Lưng mỏi, bụng đau, hoặc âm hộ ra máu, tinh thần mỏi mệt, mạch hoạt vô lực.
Người xưa có phép tính tháng để cho uống Thu*c an thai. Thai khi không an, tất có nguyên nhân, hoặc hư hoặc thực, hoặc hàn hoặc nhiệt; đều có thể làm cho thai sinh bệnh, trừ hết bệnh là thai tự an. Phương pháp điều trị cụ thể theo đúng tình hình bệnh, xem hư, thực, hàn, nhiệt mà dùng các phương Thu*c bổ, tả, ôn, thanh mà biện chứng để chữa. Chú ý bổ can- thận, làm cho thai được vững chắc.
Các bài Thu*c thường dùng theo từng thể bệnh để an thai:
Khí hư: Phép trị bổ khí huyết. Bài Thu*c: Thai nguyên ẩm.
Tỳ hư: Phép trị bổ trung khí thêm Thu*c an thai. Bài Thu*c: Bổ trung ích khí thang gia a-giao, ngải diệp.
Thận hư: Phép trị bổ thận an thai. Bài Thu*c: Thánh dũ thang gia đỗ trọng, tục đoạn, tang kí sinh, thỏ ty tử
Âm hư huyết nhiệt: Phép trị tư tâm thanh nhiệt an thai. Bài Thu*c: Bảo âm tiễn.
Can khí uất trệ: Phép trị bình can, thư uất, lý khí an thai. Bài Thu*c: Tử tô ẩm.
Vấp ngã thương tổn: Phép trị: Điều nguyên, dưỡng huyết, an thai. Chưa ra huyết thì dùng bài Thánh dũ thang gia đỗ trọng, tang kí sinh, tục đoạn, sa nhân. Nếu đã ra huyết thì dùng bài Tiểu phẩm trữ căn thang gia đỗ trọng, tục đoạn, tang kí sinh.
Thầy Thu*c yhct phải vận dụng “tứ chẩn” (vọng - văn - vấn - thiết tức là nhìn - nghe, hỏi - bắt mạch) để thu thập tư liệu lâm sàng, trên tinh thần kết hợp đông - tây y. phối hợp kiến thức y học hiện đại trong khám thực thể lâm sàng để xác định chính xác bệnh lý, qua đó không bỏ sót chẩn đoán, để ứng dụng điều trị tốt hơn.
Có những món ăn thông thường chúng ta nghĩ ăn vào là tốt cho thai, dễ đẻ, mát thai… nhưng thực ra ăn vào có nguy cơ gây hại cho thai, thâm chí sảy thai:
Đu đủ, rau ngót: Có chứa papaverin, có tác dụng giãn cơ trơn, giảm đau, hạ huyết áp. Nếu bà bầu ăn nhiều rau này, đặc biệt trong ba tháng đầu của thai kỳ sẽ có nguy cơ bị sẩy thai do cổ tử cung co thắt.
Khổ qua: Nhiều vitamin và chất xơ, có chứa quinine, monodicine,… kích thích co bóp tử cung. Nếu bà bầu ăn các món ăn chế biến từ trái khổ qua sẽ có nguy cơ bị sẩy thai rất cao.
Măng tươi: Chứa cyanide, một chất rất nguy hiểm đối với cơ thể. Nếu không loại bỏ chất độc này trước khi ăn, bà bầu có thể bị ngộ độc.
Tía tô: Có tính ấm, dùng thường xuyên sẽ không tốt cho sức khỏe, bà bầu có nguy cơ bị tăng huyết áp. Tía tô là một vị Thu*c, khi không có bệnh chỉ nên dùng như một gia vị, không nên tự ý dùng bừa bãi.
Phụ nữ có thai cần khám thai định kỳ đầy đủ tại các bệnh viện sản hoặc khoa sản của bệnh viện đa khoa. Khám bất cứ khi nào có dấu hiệu bất thường. Bổ sung dinh dưỡng đầy đủ, chế độ ăn uống cân bằng theo chỉ dẫn của thầy Thu*c. Không nên ăn thiên lệch một món ăn nào quá nhiều. Nên tránh những thứ có thể gây hại cho thai nhi như rượu, Thu*c lá, C*n sa và M* t*y. Nếu đang sử dụng Thu*c kê đơn hoặc các loại Thu*c không cần toa như vitamin và Thu*c giảm đau, nên cần đến sự tư vấn của bác sĩ, để cân nhắc việc sử dụng Thu*c đối với cả Thu*c Tây và Thu*c Đông y.