Theo YHCT, nhân sâm được coi là đầu vị của Thu*c bổ khí và đứng đầu trong 4 vị Thu*c quý của Đông y: sâm, nhung, quế, phụ. Với công năng bổ khí, ích huyết, sinh tân, định thần, ích trí. Được dùng trị chứng chân khí suy kém, cơ thể thường xuyên có cảm giác mệt mỏi, đoản hơi, đoản khí, chân tay lạnh, mạch yếu, người gầy yếu, cơ thể mới ốm dậy, kém ăn, trí nhớ suy giảm, người ở trạng thái căng thẳng thần kinh, trong người nóng, háo khát, đái tháo, tim loạn nhịp, Sinh d*c kém, trẻ em quá gầy yếu, chậm lớn.
Nhân sâm tuy là loại Thu*c bổ khí đầu vị, song không phải dùng cho mọi đối tượng được. Người bụng thường xuyên bị đầy trướng, căng tức, đau bụng, sôi bụng, phân nát, lỏng hoặc tiêu chảy không được dùng. Đặc biệt, nếu bị đau bụng, tiêu chảy, dùng nhân sâm có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Người bị nôn mửa, trào ngược, tăng huyết áp cũng không nên dùng. Vì sâm lúc đầu có tác dụng tăng huyết áp, sau lại hạ. Do vậy nếu ở trạng thái tăng huyết áp dễ dẫn đến tai biến mạch máu não. Phụ nữ trước ngày sinh cũng không nên dùng sâm.
Người hay mất ngủ nhưng sức khỏe yếu mà muốn dùng sâm nên dùng buổi sáng với liều lượng thấp, khoảng 2-3g/ngày. Cần lưu ý không dùng lô sâm (đầu núm rễ củ sâm), vì có tác dụng gây nôn. Không dùng kèm với vị lê lô và ngũ linh chi.
Trẻ em cơ thể yếu, kém ăn, chậm phát triển về thể lực và tinh thần có thể dùng nhân sâm, song không nên quá lạm dụng vì sẽ làm cho trẻ bị K*ch d*c sớm.
Đối với người bị cảm mạo không nên dùng nhân sâm. Vì nhân sâm rất bổ khí và có thể làm người bệnh ngoại tà trệ lưu trong cơ thể không thể phát tiết ra ngoài được khiến bệnh bị kéo dài hơn.
Những người bị bệnh viêm gan truyền nhiễm cấp tính, viêm túi mật cấp tính hay bệnh sỏi mật,… được khuyến cáo không nên dùng nhân sâm. Bởi khi dùng nhân sâm sẽ làm cho khí trệ uất kết và khiến chứng bệnh nặng thêm.
Những bệnh này thuộc thấp nhiệt tích trệ, không nên dùng nhân sâm vì sẽ khiến tình trạng ở dạ dày và ruột bị nặng thêm thay vì bồi bổ đấy nhé!
Chứng viêm loét dạ dày là do dịch vị tiết ra quá nhiều. Trong đông y gọi đây là hiện tượng khí trệ vị hỏa khiến sinh ra nhiệt và xuất huyết. Để chữa trị bệnh này cần phải hòa khí huyết mà Nhân Sâm lại có tác dụng bổ khí, làm khí huyết càng thinh lên. Việc này sẽ khiến bệnh càng thêm trở nặng.
Người bị bệnh lý này trong đông y gọi là âm hư hỏa vượng, phế âm suy nhược. Để điều trị cần phải tư âm giáng hỏa, lương huyết chỉ huyết. Mà nhân sâm lại làm cho thương âm động hỏa và khiến hiện tượng nôn ra máu trở nên nặng thêm.
Người bị cao huyết áp cần đặc biệt tránh sử dụng nhân sâm. Bởi dược liệu này có hai tác dụng với huyết áp là khi dùng liệu lượng nhỏ sẽ khiến bị tăng huyết áp, còn liệu lượng lớn lại hạ huyết áp. Nói chung người bị huyết áp không dùng Nhân Sâm.
Nhâm sâm có tác dụng thúc đẩy kích thích tố T*nh d*c mà nam gới hay bị di tinh và sớm xuất tinh sẽ nhạy cảm và dễ bị kích thích mạnh về T*nh d*c. Nếu uống nhân sâm sẽ khiến tình trạng xuất tinh quá sớm trở nặng.
Những người bị bệnh về hệ thống miễn dịch như mụn nhọt, viêm khớp dạng thấp, ban đỏ,… cần tránh dùng nhân sâm. Vì nhân sâm có thể làm kháng thể tăng lên nhiều, kích thích kháng hạch kháng thể hoạt động khiến tình trạng bệnh trở nên xấu đi.
Quảng An (tổng hợp)