Bài viết này xin được nói về dòng chảy phát triển Phật giáo xứ Thanh, thông qua nhân vật Thái úy Lý Thường Kiệt với sự kết hợp nhuần nhuyễn “đạo pháp và dân tộc”. Trước khi đi vào chủ đề chính, chúng tôi xin mạn phép khái lược sơ nét về Phật giáo thời Lý:
Phật giáo triều đại nhà Lý luôn đồng hành cùng dân tộc
Điểm đặc biệt của đất nước chúng ta là Phật giáo luôn kề vai sát cánh với dân tộc trong mọi thời đại. Từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta trong những năm đầu Công nguyên, dân tộc ta đã tiếp thu nền Phật giáo chân chính, biết kết hợp hài hòa với đạo thờ ông bà tổ tiên để xây dựng giềng mối đạo đức, bằng tình người trong cuộc sống.
“Uống nước nhớ nguồn” là văn hóa gốc của người Việt Nam về đạo thờ ông bà tổ tiên, sống hiếu thảo biết kính trên nhường dưới, tôn trọng và quý kính những người đã có công dựng nước, giữ nước trong 4000 năm văn hiến với tinh thần biết ơn và đền ơn.
Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam trên 2000 năm nay, kết hợp với truyền thống thờ ông bà tổ tiên của đất nước ta, đã đem lại cơm no áo ấm và gìn giữ được giềng mối đạo đức làm người.
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, từ khi đạo Phật có mặt ở thế gian không gây ra bạo động hận thù mà còn giúp cho nhân loại sống đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, bằng trái tim có hiểu biết. Chính vì vậy mà ngày 15 tháng 12 năm 1999 Đại hội đồng Liên hiệp quốc công nhận lễ Vesak Phật giáo là lễ hội văn hóa của thế giới loài người.
Nhiều dòng thiền đã đến Việt Nam như dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, dòng thiền Vô Ngôn Thông, rồi đến dòng thiền Thảo Đường, phát triển rất mạnh và thật sự đi vào lòng dân tộc. Nhưng mãi đến hai triều đại Lý-Trần thì Phật giáo mới trở thành nếp sống văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Thế cho nên người xưa đã ca tụng:
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Đặc biệt vào thời Lý–Trần những vị vua khai quốc đều là những phật tử thuần thành, có vị cởi bỏ long bào, xuất gia trở thành tu sĩ như Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Trong chế độ phong kiến quân chủ, vai trò của nhà vua rất to lớn, nắm giữ cả vận mạng quốc gia. Khi vua là phật tử thì quan quân thần dân thiên hạ đều bắt chước làm theo, vì họ là những bầy tôi trung thành. Với ảnh hưởng sâu sắc đó, trải qua nhiều thời đại, Phật giáo đã đi sâu vào lòng dân tộc với tinh thần “tốt đạo đẹp đời”, đặc biệt là Phật giáo đời Trần đã trở thành quốc giáo với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Đại Việt.
Thiết nghĩ nhờ tiền đề ban đầu do các vị thiền sư đời Lý khởi xướng với tinh thần mang đạo vào đời, trên được vua quan ủng hộ, dưới thì dân chúng noi theo nên từ đó đã thực hiện được tinh thần đoàn kết dân tộc và áp dụng giáo lý nhà Phật vào trong đời sống gia đình, xã hội.
Chúng tôi hiện giờ là những tu sĩ trong thời hiện đại, có duyên biết được lịch sử ông cha ta hơn ngàn năm về trước, không thể không quan tâm đến việc phục hưng ngôi chùa Linh Xứng, khơi gợi lại công lao to lớn của hai triều đại Lý-Trần “mang đạo vào đời”.
Ngày hôm nay đất ta được thống nhất và hòa bình trở lại hơn 40 năm, tinh thần hộ quốc an dân đã thấm nhuần trong lòng dân tộc, chúng tôi mong mỏi thiết tha kêu gọi quý ban chính quyền các cấp, quan tâm hơn và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt, để phục hưng ngôi chùa Linh Xứng (Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa) trong triều đại nhà Lý mau sớm được hình thành.
Dân tộc Việt Nam trên bốn ngàn năm văn hiến từ thời kỳ dựng nước và giữ nước, nhờ biết áp dụng Phật giáo vào trong toàn dân mà mọi người được cơm no áo ấm, sống nhân từ và đạo đức hơn.
Dân tộc Việt Nam trong đó có những người phật tử yêu nước cần phải ghi nhớ công ơn và tôn thờ các vị anh hùng đã hy sinh xương máu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc để nhắc nhở hàng hậu học về những trang sử đầy tự hào của cha ông ngày trước.
Uống nước nhớ nguồn và đạo thờ ông bà tổ tiên là văn hóa ứng xử mang tính nhân văn đạo đức, những ngày giỗ kỵ hằng năm chúng ta cùng ôn lại tiểu sử của cha ông ta, nhờ đó con cháu mình biết được những đóng góp to lớn của cha ông ta cho đất nước, cho cộng đồng và xã hội để phát huy truyền thống “tốt đạo đẹp đời” của dân tộc Việt Nam.
Bác Hồ đã từng viết lên những vần thơ sử nước nhà như sau:
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Trên đà tiến bộ của thời đại, đất nước ta về mọi mặt đều phát triển. Tuy nhiên, khi điều kiện vật chất đầy đủ, con người rất dễ bị tha hóa. Nếu không có sự kết hợp của luật pháp nghiêm minh cùng với việc đưa giáo lý Phật Đà vào trong giáo dục thì e rằng tệ nạn xã hội sẽ tràn lan.
Chúng tôi chân thành thiết tha kêu gọi vì sự nghiệp 10 năm trồng cây, 100 trồng người, đất nước ta cùng toàn dân đồng lòng mang đạo vào đời như ông cha ta ngày xưa để xã hội sẽ từng bước tiến đến dân giàu, nước mạnh, văn minh, đạo đức và hòa hợp.
Anh hùng Lý Thường Kiệt với tinh thần hộ quốc an dân
Lý Thường Kiệt tên thật Ngô Tuấn, người ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (hiện là Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội). Theo sử cũ thì ông quê ở phường Thái Hòa, thành Thăng Long. Do có công lao to lớn dẹp Tống bình Chiêm nên được vua triều Lý kết nghĩa huynh đệ đổi tên là Lý Thường Kiệt.
Ông sinh năm 1019, mất tháng 6 năm Ất Dậu (1105) hưởng thọ 86 tuổi. Ông từng làm quan lớn dưới ba triều đại: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và trực tiếp làm Tổng Trấn Thanh Hoá gần 20 năm (1082-1101).
Ông có công rất lớn trong việc xây dựng và gìn giữ đất nước cũng như việc dẹp Tống, bình Chiêm, chặn đứng các cuộc xâm lược của ngoại bang, đem lại bình yên cho đất nước, hạnh phúc cho mọi người, nên được các vua thời Lý tin tưởng, giao phó nhiều nhiệm vụ quan trọng và được nhân dân yêu mến, kính phục tôn thờ như vị Thánh sống.
Sau hơn bốn chục năm phụ giúp triều đình nhà Lý đánh dẹp ngoại xâm giữ yên bờ cõi, năm 1082, Thái úy Lý Thường Kiệt được phân công về làm Tổng Trấn Thanh Hóa để bảo vệ vùng đất quan trọng ở phía Nam của đất nước.
Ông làm Tổng Trấn Thanh Hóa gần 20 năm (từ 1082 đến 1101), giúp cho tất cả nhân dân được cơm no áo ấm, muôn nhà sống yên vui, hạnh phúc nhờ biết đưa Phật pháp vào trong đời sống gia đình, xã hội và phá bỏ các hủ tục có hại.
Chính ông là người đã thành lập ngôi chùa Linh Xứng tại núi Ngưỡng Sơn, ngày nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. Thiền sư Hải Chiếu đã hết lời ngợi ca trong bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn như sau:
“Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ giản dị. Những việc đổi dời phong tục, nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ quần chúng, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng oai vũ để trừ bọn gian ác, đem minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết dân lấy ấm no làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được an thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự đẹp tốt đều ở đây cả. Giúp chính sự cho ba triều, dẹp yên loạn biên tái, chỉ khoảng vài năm mà tám phương yên lặng, công thật to lớn”.
Ngoài việc làm cho vùng đất tiếp giáp phía Nam của đất nước được yên ổn, vững mạnh, ông còn có công rất lớn trong việc phát triển chùa chiền và trùng tu lại rất nhiều ngôi chùa, làm cho đạo Phật ở Thanh Hóa lúc bấy giờ được phát triển hưng thịnh.
Sau khi làm tròn nhiệm vụ ở xứ Thanh và rời khỏi đây chỉ 4 năm, đến năm 1105, anh hùng Lý Thường Kiệt qua đời, thọ 86 tuổi. Đây là duyên khởi chùa Linh Xứng. Thế cho nên: Tiên học đạo đức làm người, Hậu học chữ nghĩa kiến thức.
“Phật tử chùa Linh Xứng, nguyện noi gương Phật Thích Ca Mâu Ni, dấn thân tu học phước huệ trang nghiêm. Dân tộc nước Việt Nam, phát huy tinh thần mang đạo vào đời, do hai triều đại Lý-Trần sáng lập”.
“Anh hùng Lý Thường Kiệt khơi nguồn tâm linh, mở trang sử mới cho người dân nước Việt. Phật hoàng Trần Nhân Tông đưa đạo vào đời, phá trừ mê tín làm rạng rỡ tổ tiên”.
Thái úy Lý Thường Kiệt là một vị danh tướng thời Lý. Chiến công của ông đã làm cho quân thù khiếp sợ trên sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu thuộc làng Như Nguyệt, Bắc Ninh). Tên tuổi ông đã gắn liền với bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng đầu tiên trong lịch sử dân tộc nước Đại Việt:
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Mặc dù trải qua thời gian dài nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử, vẫn chưa biết đích xác tác giả bài Tuyên ngôn độc lập đầu tiên này là ai, song đến nay nhiều người vẫn công nhận ông là người đã dùng bài thơ trên để làm vũ khí tuyên truyền chống ngoại xâm thành công.
Trong tiến trình lịch sử oanh liệt đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc đã xuất hiện những bản tuyên ngôn độc lập bất hủ, mà "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" là bản mở đầu (tức là Sông núi nước Nam vua Nam ở). Sông núi nước Nam là của người Nam chứ không phải là của người phương Bắc, (tức Trung Quốc ngày nay). Đó là một sự thật hiển nhiên, không ai có thể phủ nhận được bởi giang sơn bờ cõi này là do dân tộc ta đã gây dựng trên bốn ngàn năm văn hiến.
"Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành rành định phận tại sách trời)". Câu thứ hai của bài thơ nhấn mạnh tính chất chủ quyền độc lập của đất nước Đại Việt được viết lại trong sách trời.
Ngày xưa thời phong kiến, ai cũng công nhận thần linh thượng đế là đấng tối cao hay còn gọi là “Trời”, thế cho nên làm vua gọi là thiên tử tức con trời, thay trời để trị vì thiên hạ. Chính vì vậy, ai cũng phải thừa nhận điều được ghi rõ trong sách trời.
Đã làm người ai cũng khát khao quyền độc lập tự chủ của một đất nước, thế cho nên dân tộc ta kiên quyết gìn giữ đất nước chống ngoại bang xâm lược phương Bắc, bảo vệ chủ quyền dân tộc Đại Việt. Ý chí ấy được khẳng định qua hai câu kết của bài thơ:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lời tuyên bố thật hùng hồn và đanh thép: Kẻ thù chớ có xâm phạm chủ quyền của nước Đại Việt. Nếu chúng bay dám coi thường dân tộc Đại Việt, xâm phạm đến sông núi nước Nam thì sẽ chuốc lấy thất bại nặng nề. Bản tuyên ngôn ấy được kết tinh đầy đủ từ ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết của dân tộc Đại Việt suốt mấy ngàn năm lịch sử và được soi sáng cho đến tận hôm nay.
Sau khi đất nước an ổn không còn giặc ngoại bang xâm lược nữa, Tổng trấn Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh vác trách nhiệm xây dựng và phát triển đất nước nhằm đem lại lợi ích cơm no áo ấm cho toàn dân. Ông cho tu bổ đê điều, đường sá và rất nhiều các công trình công cộng khác để phục vụ cho đời sống kinh tế, phát triển chăn nuôi, trồng trọt hoa màu và ruộng lúa, ngoài ra ông còn phát triển thêm nghề đục đá. Và đồng thời cải cách bộ máy hành chính cho phù hợp với thực tế đất nước trong hoàn cảnh không còn chiến tranh.
Với tài năng và những chiến công đã cống hiến cho đất nước, Lý Thường Kiệt xứng đáng là một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Đại Việt-Việt Nam. Trong những công trạng và sự hy sinh của bản thân ông, ta có thể thấy được sự phi thường của một vị anh hùng lịch sử có một không hai.
Ngoài việc đánh tan quân ngoại xâm và giúp cho dân chúng cơm no áo ấm, ông còn xây chùa và trùng tu rất nhiều chùa ở Thanh Hóa để cho mọi người dân biết tin sâu nhân quả, tin lời Phật dạy, sống đời đạo đức mà không làm các việc xấu ác lại hay làm những điều thiện lành tốt đẹp. Tuy có công rất lớn và được hưởng bổng lộc của triều đình, nhưng Thái úy Lý Thường Kiệt không màng phú quý vinh hoa mà chỉ một lòng vì dân, vì nước, sống một cuộc đời thanh đạm.
Tóm lại, Thái úy Lý Thường Kiệt đáng được con cháu của đất nước Việt Nam ngày hôm nay học hỏi, tôn thờ, tưởng nhớ và bắt chước noi theo với ba công trạng lớn:
Thứ nhất là anh hùng kiệt xuất dẹp Tống bình Chiêm đánh tan ngoại bang xâm lược bảo vệ chủ quyền đất nước.
Thứ hai là cải cách hành chính và xây dựng lại các công trình công cộng, tu bổ đê điều, thúc đẩy chăn nuôi trồng trọt hoa màu, mở mang ruộng đất để phục vụ cho đời sống người dân.
Thứ ba là xây chùa và sửa sang nhiều chùa, để cho mọi người cùng tu học theo lời Phật dạy, sống đời đạo đức, tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Ông mất tháng sáu năm Ất Dậu (tức trong khoảng từ 13/7 đến 11/8/1105), thọ 86 tuổi. Nhiều nơi đã lập đền thờ, dựng bia ghi công lao của ông, tiêu biểu nhất là bài văn bia chùa Linh Xứng ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá:
Quy sùng đạo Phật.