Loét dạ dày tá tràng có nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh khá phức tạp, có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó ảnh hưởng của dịch vị dạ dày mà trực tiếp là acid HCl ở dạ dày đóng vai trò quan trọng.
Loét dạ dày tá tràng có
nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh khá phức tạp, có sự tham gia của nhiều yếu tố,
trong đó ảnh hưởng của dịch vị dạ dày mà trực tiếp là acid HCl ở dạ dày đóng
vai trò quan trọng. Mặc dù trong thời gian gần đây, sự ra đời của nhóm Thuốc ức
chế bơm proton đã mang lại tiến bộ rõ rệt trong điều trị, nhưng không phải ở
đâu và không phải lúc nào cũng có thể sử dụng. Do đó, chúng ta vẫn phải nhắc
đến vai trò và các tác dụng của một nhóm Thuốc khác trong điều trị giảm tiết
acid dạ dày – nhóm
Thuốc kháng histamin H2 mà thành viên nổi bật là cimetidin.
Các Thuốc thường được sử dụng
Sau khi thử nghiệm hơn 700
hợp chất, cimetidin (biệt dược tagamet) là thế hệ đầu tiên của Thuốc kháng H2,
ra đời năm 1976; được phép bán ở thị trường vào tháng 8/1977, nhanh chóng được
sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong điều trị loét dạ dày tá tràng, có tác
dụng cắt cơn đau nhanh, liền sẹo khoảng 80% sau 6 tuần điều trị. Cimetidin
nhanh chóng trở thành Thuốc chống loét được ưa chuộng và được sử dụng rộng rãi.
Kể từ đó đến nay, cimetidin trở thành một trong những Thuốc được kê đơn phổ
biến nhất, chỉ đứng sau ranitidin.
Tháng 6/1983, ranitidin - một
ức chế thụ thể H2 thứ 2 được chấp nhận, Thuốc có cấu trúc hơi khác với
cimetidin, gây giảm tiết dịch vị gấp 5 - 10 lần cimetidin khi sử dụng cùng
liều. Tuy nhiên, Thuốc cũng không làm thay đổi diễn tiến tự nhiên của bệnh. Sau
đợt điều trị ngắn hạn mà dừng Thuốc, tỷ lệ tái phát là 50% trong vòng 6 tháng,
85% tái phát sau 1 năm. Thuốc có ít tác dụng phụ hơn cimetidin, chủ yếu là nhức
đầu, chóng mặt, ngứa..., ngừng Thuốc thì hết.
Tháng 10/1986 và tháng
8/1988, famotidin và nizatidin lần lượt được chấp nhận, có tác dụng mạnh hơn và
ít tác dụng phụ hơn cimetidin rất nhiều.
Chỉ định điều trị
Do công thức gần giống với
histamin, các
Thuốc kháng histamin H2 tranh chấp với histamin tại receptor H2
và không có tác dụng trên receptor H1. Tuy receptor H2 có ở nhiều mô như thành
mạch, khí quản, tim nhưng
Thuốc kháng histamin H2 tác dụng chủ yếu tại các
receptor H2 ở dạ dày.
Thuốc kháng histamin H2 ngăn cản bài tiết dịch vị do bất
kỳ nguyên nhân nào làm tăng tiết histamin tại dạ dày (cường phó giao cảm, thức
ăn, gastrin, bài tiết cơ sở). Do đó, nó không chỉ ức chế sau khi kích thích
bằng histamin mà còn cả sau kích thích bằng gastrin hoặc acetylcholin. Liều
lượng nhằm làm giảm tiết acid tương đương hiệu quả của cắt dây X (dây thần kinh
phế vị).
Tác dụng của Thuốc kháng
histamin H2 phụ thuộc vào liều lượng, Thuốc làm giảm tiết cả số lượng và nồng
độ HCl trong dịch vị.
Vì vậy, Thuốc được chỉ định
trong các trường hợp sau:
Loét dạ dày-tá tràng lành
tính, kể cả loét do dùng Thuốc chống viêm không steroid. Bệnh trào ngược dạ dày
- thực quản. Hội chứng tăng tiết acid dịch vị (hội chứng Zollinger - Ellison).
Làm giảm tiết acid dịch vị
trong một số trường hợp loét đường tiêu hóa khác có liên quan đến tăng tiết
dịch vị như loét miệng nối dạ dày-ruột.
Làm giảm các triệu chứng rối
loạn tiêu hóa (nóng rát, khó tiêu, ợ chua) do thừa acid dịch vị.
Làm giảm nguy cơ hít phải
acid dịch vị khi gây mê hoặc khi sinh đẻ (hội chứng Mendelson).
Chống chỉ định và thận trọng
Chống chỉ định trong những
trường hợp: quá mẫn với Thuốc.Thận trọng: trước khi dùng
Thuốc kháng histamin
H2, phải loại trừ khả năng ung thư dạ dày, đặc biệt ở người từ trung niên trở
lên vì Thuốc có thể che lấp các triệu chứng, làm chậm chẩn đoán ung thư; Có
nhạy cảm chéo giữa các Thuốc trong nhóm kháng histamin H2.
Dùng thận trọng, giảm liều
và/hoặc kéo dài khoảng cách giữa các lần dùng Thuốc ở người suy thận; Thận
trọng ở người suy gan, phụ nữ có thai và cho con bú (ngừng Thuốc hoặc ngừng cho
con bú).
Tác dụng không mong muốn
Các chất đối kháng H2 có tính
chất giống nhau, nó đã được chấp nhận rộng rãi, tuy nhiên, cimetidin dường như
gây ra tương tác với các Thuốc chuyển hóa ở gan hơn các Thuốc khác.
Trong quá trình dùng Thuốc,
người bệnh có thể gặp những triệu chứng bất thường do Thuốc gây nên như: tiêu
chảy, đau đầu, chóng mặt, ngủ gà, lú lẫn, trầm cảm, kích động… hay chứng to vú
ở đàn ông, bất lực ở đàn ông, tăng men gan. Viêm gan mạn tính, vàng da, rối
loạn chức năng gan, viêm tụy có thể xảy ra. Các phản ứng này cũng sẽ khỏi khi
ngừng Thuốc… Đây là những tác dụng phụ của Thuốc, những triệu chứng này có thể
gặp ngay cả ở liều điều trị.
Ngoài ra, các Thuốc thuộc
nhóm này còn gây tương tác với rất nhiều Thuốc khác, vì vậy, người bệnh không nên
tự ý dùng Thuốc mà phải tuân theo sự chỉ định của bác sĩ điều trị.
ThS. Nguyễn Bạch Đằng