Tâm linh hôm nay

Tha lực trong kinh tạng Pali và Hán tạng

Bấy giờ, đức Thế Tôn, trong khi quán sát thế gian vào lúc rạng đông, với Thiên nhãn Ngài thấy bà và suy nghĩ: Nữ nhân này sắp ch*t hôm nay có thể tái sanh vào địa ngục. Vậy bây giờ Ta hãy làm cho bà ấy tái sanh thiên giới bằng cách nhận mè do bà ấy bố thí.

Thế nào là tha lực?

Tha lực theo nghĩa hẹp là lực tác động từ bên ngoài. Trong Phật giáo, tha lực là Phật lực hoặc Thánh lực (Bồ tát) được tác ý làm cho nhân tốt trổ quả hoặc tạo nhân quả tốt cho chúng sinh hữu tình vì lòng bi mẫn của Đấng Thiện Thệ. Qua phương pháp phân tích văn bản đối chiếu hai nguồn Kinh tạng: Pali tạng (Tạng kinh của Phật giáo Nguyên Thủy) và Hán tạng (Tạng kinh của Phật giáo Đại Thừa). Bài tiểu luận này mổ xẻ hai chủ đề chính: tính tương đồng và logic giữa hai nguồn kinh tạng về tha lực.

1. Tính tương đồng:

Nhân quả đồng nhất qua sự tác ý hoặc ý muốn (nguyện lực) của Phật hoặc chư Phật.

Có khá nhiều tích truyện trong Tiểu Bộ Kinh Tập II – Thiên Cung Sự cho thấy kết quả thoát sinh lên Thiên giới của những chúng sanh hữu tình lẽ ra bị đọa vào ác đạo đều do sự tác ý (ý muốn) của đức Phật hoặc Thánh Đệ tử như Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất. Sau đây là ba trong nhiều tích truyện bút giả trích dẫn từ Tiểu Bộ Kinh – Tập II (Tạng Pali) chứng minh Phật lực hoặc Thánh lực bất khả tư nghị của đức Phật và Thánh đệ tử:

1.1. Lâu đài do cúng mè

(Tiladakkhina-Vimàna)

Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi, tại Kỳ Viên, trong tinh xá ông Cấp Cô Ðộc. Thời ấy tại Ràjagaha (Vương Xá) có một nữ nhân đang mang thai, rửa sạch mè và phơi khô vì bà muốn uống một ít dầu mè.

Thọ mạng của bà sắp chấm dứt, và bà có số phận phải ch*t ngay hôm ấy với các hạnh nghiệp chồng chất đưa đến tái sinh vào địa ngục.

Bấy giờ, đức Thế Tôn, trong khi quán sát thế gian vào lúc rạng đông, với Thiên nhãn Ngài thấy bà và suy nghĩ: 'Nữ nhân này sắp ch*t hôm nay có thể tái sanh vào địa ngục. Vậy bây giờ Ta hãy làm cho bà ấy tái sanh thiên giới bằng cách nhận mè do bà ấy bố thí'.

Chỉ trong chốc lát, Ngài đi từ Sàvatthi (Sá Vệ) đến Ràjagaha, và trong khi Ngài đi khất thực ngang qua thành Ràjagaha, Ngài đến cửa nhà bà. Nữ nhân ấy thấy đức Thế Tôn, lòng tràn ngập hân hoan hạnh phúc, vội đứng lên chắp hai tay, và thấy không có gì khác xứng đáng để cúng dường, bà rửa tay chân và lùa mè lại thành một đống, bà bụm cả hai tay lại, bốc đầy mè và đặt nắm mè vào bình bát đức Thế Tôn. Do lòng từ mẫn đối với bà, đức Thế Tôn bảo: 'Mong con được an lạc', rồi tiếp tục lên đường.

Ðêm ấy, lúc gần rạng đông, bà kia từ trần và được tái sinh vào cõi trời ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần.

Tôn giả Mahà-Moggallàna (Mục Kiền Liên), trong lúc du hành lên cõi trời (như được tả trên đây), gặp bà và hỏi:

1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm

Ðang chiếu mười phương với ánh quang,

Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng

Như vì sao cứu hộ trần gian.

2. Vì sao nàng được sắc như vầy,

Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,

Những lạc thú gì nàng mến chuộng

Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?

3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,

Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,

Thần lực nàng vì sao rực rỡ,

Dung quang sáng chói khắp mười phương.

4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,

Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,

Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,

Và đây là kết quả cho nàng:

5. Trong đời sống trước giữa phàm trần,

Con được sinh làm một thế nhân,

Con gặp Phật-đà vô lậu hoặc,

An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm.

6. Gặp Phật, con đầy đủ tín thành,

Cúng dường lễ vật chính tay mình,

Lòng không tham vọng, đem mè tặng

Ðấng Giác Ngộ là bậc xứng danh.

7. Vì thế sắc con đẹp thế này,

Và con vinh hiển ở nơi đây,

Bất kỳ lạc thú nào trong dạ

Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.

8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,

Công đức con làm giữa thế nhân,

Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,

Dung quang tỏa sáng khắp mười phương. [1]

1.2. Lâu đài của nàng Chiên-Ðà-La

(Candàlì-Vimàna)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú ngụ tại Ràjagaha, Ngài nhập định Ðại bi mà chư Phật thường trú, sau đó xuất định và quán sát thế gian. Ngài thấy ngay trong thành phố ấy tại khu vực của dân chúng Candàla (Chiên-đà-la, hạng người vô loại khốn cùng không ai tiếp xúc) có một bà lão sắp mạng chung và một ác nghiệp đưa đến địa ngục đã xuất hiện cho bà.

Với tâm Ðại bi, muốn làm cho bà tạo một nghiệp lành đưa đến cõi trời, Ngài suy nghĩ: 'Ta sẽ an trú kẻ ấy vào thiên giới', Ngài liền cùng đại chúng Tỷ - kheo vào Ràjagaha khất thực.

Vào lúc ấy, bà lão Chiên-đà-la chống gậy ra khỏi thành, thấy đức Thế Tôn đến gần, và khi bà đối diện Ngài, bà dừng lại. Ðức Thế Tôn cũng dừng lại và đứng ngay trước mặt bà như thể cản bà tiến lên.

Sau đó, Tôn giả Mahà-Moggallàna, biết tâm bậc Ðạo sư và cũng biết thọ mạng bà lão sắp hết, bèn thúc giục bà đảnh lễ đức Thế Tôn:

1. Lễ chân đức Phật Go-ta-ma,

Vì xót thương cho số phận bà,

Giác giả tối cao, danh tiếng rộng,

Ðứng ngay trước mặt, hỡi Chiên-đà.

2. Hãy hướng tâm đầy đủ thiện duyên

Về Ngài La-hán, bậc an nhiên,

Mau mau đảnh lễ, hai tay chắp,

Vì mạng sống kia chẳng được bền!

Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người được đắc Pháp nhãn. [3]

Ba câu chuyện trên có những đặc điểm chung là cả ba chúng sanh hữu tình đều có những ác nghiệp, sắp ch*t và bị đọa vào địa ngục và cả ba đều được sinh lên thiên giới nhờ Tha Lực: Phật Lực hoặc Thánh Lực. Cả ba trường hợp nhân quả đồng thời: cúng mè, đảnh lễ Thế Tôn là nhân. Kết quả sanh thiên là nhờ Phật Lực hay Phước điền của Phật và Thánh đệ tử. Tương tự trong Hán Tạng: Nguyện Lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh Niệm Phật: Niệm Phật là Nhân, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là quả. Quả Vãng sanh là do Phật Lực của Phật A Di Đà đã thành tựu 48 đại nguyện độ khắp chúng sanh quyết định. Ba trường hợp sinh thiên này tương đồng với những lời kinh trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh: khi một người sắp ch*t do nghiệp lực bi đọa ác đạo nhưng sẽ được đới nghiệp vãng sanh nếu kẻ ấy may mắn được thiện trí thức khuyên bảo niệm thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật tương tục mười niệm thì nhờ nguyện lực của Phật Di Đà kẻ ấy được vãng sanh Tây Phương cực lạc quốc.

2. Tính Logic của Tha lực

2.1 Tác ý lên nhân tốt đã có sẵn (do chúng sanh hữu tình đã gieo trồng) làm trổ quả lành:

Đức Phật có thể tác ý khiến cho nhân tốt (mà chúng ta đã trồng) trổ quả cho dẫu bao vây chúng ta là những nghiệp xấu ác (nhân xấu chúng ta đã gieo). Như câu chuyện trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển một, trang 126 sau đây:

Bấy giờ trước đại chúng đông đảo Tỳ Kheo (Tăng) tại thàmh La Duyệt vườn Ca Lan Đà, đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

"Các Thầy có thấy pháp (suy nghĩ, nói năng, việc làm) của Đề Bà Đạt Đa (Em con người Chú của đức Phật) là thanh tịnh chăng?, ngược lại Đề Bà Đạt Đa tạo ác sâu nặng, sẽ chịu tội nhiều kiếp không thể chữa trị. Ta chẳng thấy Đề Bà Đạt Đa có một tí điều lành có thể kể ra được. Ví như có người rơi xuống cầu tiêu sâu, thân hình chìm lỉm, không còn một chỗ nào sạch, người khác muốn vớt cứu lên, đứng ngó xem thấy người đó chẳng còn có một chỗ nào sạch để có thể nắm kéo lên, liền bỏ đi, này các Tỳ Kheo, tại sao như thế? Vì Đề Bà Đạt Đa một mực ngu si, tham đắm lợi dưỡng (Đồ ăn, vật dụng v.v… của Thái tử A Xà Thế), tạo tội ngũ nghịch (tội ngũ nghịch gồm: giết cha mẹ, muốn hại Phật, phá rối Tăng đoàn, giết Tăng Ni, có tà kiến như không tin nhân qủa …). Khi ch*t sẽ đọa Địa ngục chịu tội nhiều kiếp (mỗi kiếp khoảng hơn 16 triệu năm), này các Tỳ Kheo, đã sinh tâm ưa lợi dưỡng hãy lìa bỏ, nếu chưa sinh tâm dính mắc lợi dưỡng đừng cho sinh khởi”.

Đức Phật nói tiếp:

"Giả thử Ta thấy Đề Bà Đạt Đa có một chút pháp lành, Ta đã không thọ ký phải chịu tội nhiều kiếp, thế nên, này Tỳ Kheo si mê, sở dĩ như thế vì Đề Bà Đạt Đa ngu si tham đắm lợi dưỡng lại còn tạo điều nghịch ác, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này”. [4]

Như vậy nếu như Đề Bà Đạt Đa có nghiệp lành nào, phải chăng Đề Bà Đạt Đa sẽ được cứu qua sự tác ý của Thế Tôn khiến cho nhân tốt nầy trổ quả? Thí dụ một người rơi xuống hầm phân không có chỗ nào sạch để người khác nắm vào đó mà kéo lên là một thí dụ rất ấn tượng. Có thể giải thí dụ này như sau: người khác có thể ví như Thế Tôn và chỗ sạch là nghiệp lành mà Đề Bà Đạt Đa đã tạo.

Thật logic trong Hán Tạng có một tích truyện cổ kể về tên cướp Kiện Đạt Đa đang chịu cực hình ở địa ngục do vô số ác nghiệp hắn đã gây ra: cướp của, Gi*t người, đốt nhà vv. Với lòng bi mẫn, Đức Phật muốn cứu hắn bằng cách quan sát thiện nghiệp hắn đã làm và đã tác ý cho thiện nghiệp này trổ quả như trong câu truyện sau:

Kiện Đạt Đa ích kỷ.

“Có một hôm Đức Phật đi dạo bên bờ hồ sen. Lúc ấy buổi sáng sớm, gió nhè nhẹ thổi, hương sen phảng phất. Từ dung của Đức Phật như trăng rằm, ngài chăm chú nhìn giữa hồ sen, thấy hoa sen hàm tiếu nở đầy hồ, nước xanh trong vắt, lấp lánh ánh sáng.

Bỗng nhiên, bằng huệ nhãn Ngài nhìn thấu qua đáy hồ và thấy cảnh địa ngục.

Trong địa ngục bốn phía đen ngòm có một hồ máu đỏ tanh tưởi, trong đó ngàn vạn tội nhân đang chìm nổi, khóc than thảm thiết, có kẻ thì sức lực cạn kiệt mệt mỏi, có kể thì giẫy dụa vùng vẫy. Giữa đám tội nhân ấy, Đức Phật nhìn ra một người mạnh khoẻ nhất, tên là Kiện Đạt Đa, cũng đang hết sức vùng vẫy giẫy dụa.

Kiếp trước, Kiện Đạt Đa là một tên tướng cướp chuyên môn đốt nhà và Gi*t người, không có tội ác nào mà hắn không nhúng tay vào, vì tội ác dẫy đầy chồng chất mà phải đọa xuống địa ngục.

Nhưng có một lần, sau một vụ cướp của đốt nhà, trên đường về hắn thấy một con nhền nhện đang từ từ bò ngang qua đường. Khi hắn vừa đưa chân lên tính đạp xuống kết liễu mạng sống của con nhện, bỗng nhiên hắn khởi lên một niệm lành trong tâm "Con nhện nhỏ bé này cũng có sinh mệnh, cho nó ch*t giữa đường kể cũng tội nghiệp, thôi hôm nay ta tha cho nó, làm phước một phen!" Con nhện dưới chân hắn vội ba chân bốn cẳng chạy bán mạng tìm đường sống.

Khi đức Phật quan sát tới việc thiện của hắn, Ngài tìm cách cứu Kiện Đạt Đa ra khỏi địa ngục. Vừa khéo, một con nhện của thế giới Cực Lạc đang giăng một sợi tơ bạc tuyệt đẹp giữa những cành hoa. Đức Phật bèn nắm lấy sợi tơ bạc ấy, và thả từ hồ sen xuống tận địa ngục.

Địa ngục đen ngòm không chút ánh sáng, dễ sợ như một ngôi nhà mồ, chỉ thấy có một vài bộ mặt hung ác gớm ghiếc và vô số tội nhân như những hạt cát chìm nổi trong hồ máu, bò trườn vặn vẹo như những con trùng.

Kiện Đạt Đa vốn khoẻ mạnh, vô tình ngẩn đầu lên, thấy giữa không gian đen ngòm có một lằn ánh sáng chiếu xuống đỉnh đầu hắn. Như gặp được cứu tinh hắn mừng rỡ nghĩ rằng:

- Ê, đây không phải là một sợi tơ nhện từ cõi trời xa thăm thẳm kia đang từ từ hạ xuống hay sao? Giả sử như ta bám được sợi tơ nhện này rồi cứ thế mà leo lên, làm gì mà không thoát được địa ngục và trèo lên tới thế giới Cực Lạc?

Nghĩ thế xong, hắn bèn hai tay nắm lấy sợi tơ nhện, rồi vận dụng hết sức lực cố gắng trèo lên. Cái nghề trèo cây đu cành vốn là nghề của một tên tướng cướp như hắn, nên hắn trèo một cách dễ dàng như ăn cơm bữa!

Nhưng khoảng cách giữa địa ngục và Cực Lạc thế giới sao mà xa xôi diệu vợi, dẫu ráng tới đâu cũng không thể trong một lúc mà leo tới được. Sau một khoảng thời gian dài, Kiện Đạt Đa từ từ thấm mệt, hắn đành phải lơ lửng giữa hư không mà nghỉ ngơi.

Lơ lửng giữa hư không như thế, Kiện Đạt Đa thuận mắt nhìn xuống phía dưới. Hồ máu trong địa ngục bây giờ đã chìm ẩn trong một màu đen sâu thẳm, mù mờ không thấy rõ nữa. Kiện Đạt Đa lòng như nở hoa, mừng rỡ cất tiếng cười hô hố.

Đột nhiên hắn thấy phần dưới của sợi tơ nhện có vô số tội nhân hiện đang lũ lượt như đàn kiến theo gương hắn cố gắng trèo lên. Hắn kinh hoàng phẫn nộ tự bảo "Mỗi một mình ta trèo mà còn sợ sợi tơ nhện mong manh kia đứt mất, huống chi với sức nặng của từng đó người! Nếu chẳng may sợi tơ nhện đứt thì tất cả những cố gắng và hy vọng của ta sẽ tan thành bọt nước, để rồi lại phải rơi xuống địa ngục chịu khổ nữa!" Lũ tội nhân vẫn hàng hàng lớp lớp không ngừng trèo lên, càng lúc càng đông. Kiện Đạt Đa cuống quýt vừa sợ vừa giận, nổi sân hận la hét om sòm:

- Ê! Ê! Cái lũ tội nhân kia! Sợi tơ nhện này là của ta khám phá, nó thuộc quyền sở hữu của ta! Ai cho phép bọn bây trèo lên? Đi xuống! Đi xuống!

Vừa dứt lời, sợi tơ nhện bỗng đứt ngay ở phía trên chỗ Kiện Đạt Đa đang nắm.

Tên Kiện Đạt Đa ích kỷ kia giữa hư không xoay tít mấy vòng, rồi rơi tõm xuống địa ngục trở lại. Phần tơ nhện còn lại vẫn óng ánh, lấp lánh trong địa ngục tối tăm lặng im như cõi ch*t, nhưng quá xa tầm tay với của tội nhân, như một con diều lơ lửng cao vút trong không trung.

Khuôn mặt từ bi của đức Phật liền phủ lên một thoáng buồn. Ngài khẽ lắc đầu thở dài một tiếng.

Hoa sen nở đầy hồ vẫn tỏa hương ngào ngạt, lá sen mềm mại vẫn xanh mơn mởn, mà lòng xót thương từ bi của Đức Phật thì cứ vẫn dạt dào.” [5]

Phải chăng sự tác ý của đức Phật vào nghiệp lành của chúng sinh hữu tình bị ác nghiệp trùng trùng bao vây làm xuất sinh quả lành được minh chứng qua lời nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng (tiền thân của Phật A Di Đà) trước Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai như trong đoạn kinh của Vô Lượng Thọ Kinh?

“Nguyện khi an trú trong Tam Muội

Thường phóng hào quang chiếu chúng sanh

Cảm ứng sâu xa chỗ thanh tịnh

Trang nghiêm thù thắng chẳng đâu bằng”

(Phẩm IV-Trang 6) [6]

“Luân hồi sáu nẻo khắp quần sanh

Chóng sanh cõi con thọ an lạc

(Phẩm IV-Trang 13)

Phải chăng ‘Cảm ứng sâu xa chỗ thanh tịnh’ có ý rằng bất chấp nghiệp chướng sâu dày, quang minh cũng ‘tìm đến’ những nghiệp lành (thanh tịnh) của chúng sanh? Chính vì thế Phật A Di Đà có danh hiệu là Vô Ngại Quang Như Lai, Giải Thoát Quang Như Lai…

2.2 Không có hành lành nào nhưng tác ý tạo nhân quả đồng thời

Câu chuyện thứ ba ở phần 1 về người tử tội chứng minh điều nầy: Tôn giả Mahà-Moggallàna (Mục Kiền Liên) đang quán sát bằng thiên nhãn và thấy tình cảnh nguy khốn của kẻ này, Tôn giả động lòng bi mẫn và suy nghĩ: 'Vì kẻ này chưa hề làm công đức gì, mà chỉ tạo ác nghiệp, y sẽ bị tái sanh vào địa ngục. Nay nếu ta đi ra và y cho ta mứt bánh và nước uống, y sẽ được tái sanh vào hội chúng các địa thần. Ta phải giúp đỡ kẻ này' [7]

Kết luận:

Rõ ràng qua những dẫn chứng từ hai nguồn kinh tạng, Phật lực và Thánh lực biểu hiện của tha lực (phước điền hoặc nguyện lực đã thành tựu) đúng là bất khả tư nghị, giúp chúng sanh sắp bị đọa vào ác đạo sanh về cõi lành (Thiên giới hoặc Tịnh độ).

Sự tác ý của Thế Tôn vào nhân lành của chúng sanh hữu tình bị vây hãm vô vàn nghiệp ác để tạo quả theo ý muốn vì lòng bi mẫn được ví như người nông dân phát hiện một hạt giống ngô tốt giữa đám cỏ dại và làm nó trổ quả vậy. Hạt giống ngô không thể nào trổ quả trong đám cỏ dại thế nhưng nó sẽ được trổ qua nhờ "Tha lực" của người nông dân: loại bỏ đám cỏ, chăm sóc hạt giống ngô nẩy mầm cho đến khi ra hoa và trổ quả.

Tuy nhiên, bài tiểu luận nầy nhằm mục đích tôn kính ân đức của Phật Đà luôn bi mẫn chúng sanh không phân biệt và luôn tìm cách bạt độ những chúng sanh tội khổ. Đừng đợi Đấng Từ Tôn đến cứu chúng ta mà tốt nhất chúng ta nên siêng năng tạo nghiệp lành và tích lũy từng ngày. Siêng năng làm công tác thiện nguyện, niệm phật, ngồi thiền, tụng kinh, trì chú khiến đời sống chúng ta hiện tại được an lạc, tự tại an nhiên giữa đời thường và đến khi bỏ báo thân được sanh về Tây Phương Cực Lạc, hoặc ít nhất được vào quả dự lưu (nếu tu thiền) để tiếp tục tinh tấn tiến tu các kiếp tiếp theo cho đến khi đạt được giải thoát hoàn toàn. Là phật tử chúng ta luôn cố gắng làm sao để ‘sống hạnh phúc ch*t bình an’.

Nguyện Đem công đức này

Hướng về chúng sinh khắp pháp giới

Đồng sanh cõi Cực Lạc

Tâm Tịnh

3.Nguồn Tham Khảo

[1] Tiểu bộ Kinh – Tập II Khuddaka Nikàya – Thiên Cung Sự, Phẩm I: Lâu Đài Nữ Giới, Chuyện thứ mười: Lâu Đài Do Cúng Mè (Taladakkhina-Vimàna), Giáo Sư Trần Phương Lan dịch

[2] Tiểu bộ Kinh – Tập II Khuddaka Nikàya – Thiên Cung Sự, Phẩm II Cittalatà, 4.(21). Chuyện thứ tư: Lâu Đài Của Nàng Chiên-Đà-La (Candàlì-Vimàna, Giáo Sư Trần Phương Lan dịch.

[3] và [7] Tiểu bộ Kinh – Tập II Khuddaka Nikàya – Ngạ Quỷ Sự, Phẩm I: Con Rắn, Chuyện thứ nhất: Thí Dụ Phước Điền, Giáo Sư Trần Phương Lan dịch

[4] Lòng Tin –Toàn Không [Online] available http://phapbao.org/long-tin-2/

[5] Truyện Cổ Phật Giáo, PHẦN I: Những chuyện đương thời Đức Phật, Chuyện thứ sáu:. Kiện Đạt Đa ích kỷ, Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu [Online] available http://hoavouu.com/a11791/6-kien-dat-da-ich-ky

[6] Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh – Việt dịch: Tâm Tịnh

Tâm Tịnh

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/tha-luc-trong-kinh-tang-pali-va-han-tang-d14636.html)
Từ khóa: rong kinh

Chủ đề liên quan:

rong kinh

Tin cùng nội dung

  • Em năm nay 24 tuổi, chưa lập gia đình, chu kỳ kinh nguyệt của em không đều. Gần đây, em thấy kinh nguyệt kéo dài hơn 10 ngày, lượng kinh rất ít.
  • Trong lứa tuổi dậy thì, bé gái thường vô kinh nhiều tháng, sau đó có kinh lại thì kinh kéo dài. Trường hợp bị rong kinh...
  • Nguyên nhân theo y học cổ truyền phần nhiều do nội thương ăn uống thất thường, lo nghĩ quá độ, ngoại thương do nhiễm phong hàn, thấp hoặc sang thương, viêm nhiễm...
  • Khi hành kinh, phụ nữ luôn cảm thấy mệt mỏi, vì bị mất máu nhiều. Những món cháo dễ thực hiện, dễ ăn, nhất là vào những ngày hè nóng nực, sẽ là bài Thu*c hữu hiệu cho phụ nữ khi đến tháng. Sau đây Mạng Y Tế xin mời các bạn tham khảo nhé.
  • Một chu kỳ bình thường sẽ kéo dài từ 28 đến 32 ngày, thời gian hành kinh trung bình 3 - 5 ngày. Máu kinh có màu đỏ sẫm, không đông, có nhiều chất vụn của tế bào niêm mạc *m đ*o - tử cung và nhiều vi khuẩn có sẵn trong *m đ*o.
  • Rong kinh là một trong những rối loạn kinh nguyệt thường gặp ở chị em. Nếu kinh kéo dài trên 7 ngày gọi là “rong kinh”, có người kinh ra hết rồi lại có, một tháng có hai ba lần.
  • Vì vòng Tr*nh th*i nằm trong ổ bụng suốt 32 năm trời, bà Nguyễn T. P. (59 tuổi, Bình Tân) đã phải mổ cấp cứu vì bị hoại tử ruột
  • Em gái ở lứa tuổi dậy thì, cơ thể đang hoàn thiện và cũng phải đối mặt với những nguy cơ mắc bệnh phụ nữ nhiều hơn
  • Rong kinh là hiện tượng hành kinh đúng chu kỳ nhưng kéo dài trên 7 ngày và lượng máu mất đi vượt quá 80ml/chu kỳ kinh nguyệt (bình thường khoảng 50 - 80ml/chu kỳ).
  • (Mangyte) - Em nghĩ là do mới dậy thì nên kinh nguyệt chưa ổn định là chuyện bình thường, nhưng ngày nào cũng ra máu nhiều rất hại sức khỏe.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY