Tâm linh hôm nay

Thâm ý qua hình tượng chư Phật, Bồ tát (P.2 - HẾT)

Chúng sinh trầm luân mãi mãi bởi vô minh che đậy, không trông thấy pháp duyên sinh như huyễn, chấp thật ngã, thật pháp nên cứ lẩn quẩn trong vòng luân hồi. Muốn phá được vô minh phải phát huy trí tuệ. Trí tuệ tăng trưởng thì vô minh sẽ lùi xa.

Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (Bodhisattva Avalokitesvara)


Danh hiệu


Quán Thế Âm, nghĩa là quán sát tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.


Tiền thân


Thuở đức Phật Bảo Tạng, Ngài là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Ngài theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật cùng Tăng chúng về cung cúng dường. Do công đức ấy, được Phật thọ ký sau này làm Bồ Tát hiệu là Quán Thế Âm, phụ tá đức Phật A Di Đà giáo hóa chúng sinh và sau nữa sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương. (Kinh Bi Hoa quyển ba, phẩm Chư Bồ Tát bổn thọ ký).


Hạnh nguyện


Bồ Tát Quán Thế Âm không có trong lịch sử thế giới này. Ngài là vị Bồ Tát hầu cạnh đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực-lạc Phương tây. Có chỗ nói Ngài không cố định ở thế giới nào, tùy chúng sinh ở đâu đau khổ thì Ngài thị hiện đến cứu độ. Quán Thế Âm là xem xét tiếng kêu đau khổ của chúng sinh ở đời. Vì thế, Ngài là hiện thân của từ bi. Chỗ nào có chúng sinh khổ đau là có Ngài hiện thân đến đấy. Ngài hằng tùy loại chúng sinh hóa thân độ họ. Có nhiều lần Ngài hóa thân người nữ độ đời, nên người ta thường gọi Ngài là Phật Bà.


Biểu tướng


Nghiên cứu về hình tượng Ngài, chúng ta thấy có lắm tượng. Những tượng y cứ theo giả sử, như: Quán Âm Hài Nhi (thể theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính), Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc... Những tượng y cứ theo các Kinh phái Mật tông, như: Quán Âm Mã Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quán Âm Cữu Diện... Có một pho tượng phổ thông nhất là Quán Âm thanh tịnh bình thùy dương liễu. Tượng này Ngài Trí Khải hằng tán dương, chúng ta cố gắng tìm hiểu.


Tượng Ngài hình người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương, tay trái cầm bình thanh tịnh, trong bình đựng nước cam lồ. Chúng ta hằng lạy mười hai câu nguyện sau khi tụng phẩm Phổ Môn, có câu: “Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. Câu nguyện này đã diễn tả đúng hình tượng Ngài. Giờ đây, chúng ta tìm hiểu chi tiết qua hình tượng đó.

Thâm ý


Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại là người nữ? Theo Kinh Di Đà nói: “Người sinh về cõi Cực-lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ".


Kinh A-hàm nói: “Người nữ có năm chướng không thể thành Phật... Thế mà, Bồ Tát Quán Thế Âm lại hiện thân người nữ?"


Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân của đức từ bi. Muốn nói lên tình thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không tình thương nào qua tình mẹ thương con. Mẹ đối với con là tình thương chân thành thâm thúy bao la, khó lấy cái gì có thể hình dung được. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm gì, một khi nghe tiếng con kêu khóc, mẹ buông bỏ tất cả vội vàng chạy lại vỗ về con.

Đức Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu thương của chúng sinh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. Vì thế, gọi Ngài là Bồ Tát Quán Thế Âm. Người mẹ hiền của tất cả chúng sinh, người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nấc nở từ cõi lòng của đàn con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa dịu, cứu thoát khiến mọi khổ não đều được tiêu tan.


Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng sinh.


Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gõ thì gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải gãy. Nếu yếu như cành liễu thì chỉ buông rũ theo chiều gió. Cứng quá, mếm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Cành dương nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Tức là tuy chiều theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. Vì thế, cành dương được tượng trưng cho đức nhẫn nhục.


Nhẫn nhục không có nghĩa ai làm sao cũng được, ai bảo gì cũng nghe. Chính bản chất của nó là khéo tùy thuận người, để hướng dẫn họ, theo đường lối hay lập trường của mình. Tùy thuận mà không bị họ chi phối, ngược lại chi phối được họ. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất yếu hèn, kỳ thật họ có sức mạnh phi thường, đã tự chiến thắng được tình cảm, được phản ứng của bản năng. Họ đã vượt ra ngoài phạm trù con người phàm tục, nếu lấy con mắt phàm tục nhìn họ thì không thể nào hiểu nổi.

Người chửi ta giận, người đánh ta đỡ, đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đở, ấy mới là việc khó làm, phi bậc thánh giả khó thể làm được. Hằng ngày chúng ta sống theo tình cảm, theo bản năng, thấy những phản ứng như vậy cho là phải lẽ, hợp lý. Nếu thấy người bị chửi mà không giận..., chúng ta liền đâm ra bực tức, khi dể họ, cho là kẻ hèn yếu nhát nhúa. Đâu ngờ, những kẻ ấy đã đứng trên đỉnh chúng ta, mà ở dưới này chúng ta vẫn tự cao tự đại.


Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt. Chữ lồ đọc trại chữ lộ, tức là sương hay móc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu được một giọt nước cam lồ thấm vào cổ sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ Tát. Khi chúng sinh bị lửa phiền não thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ Tát, Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới, ngọn lửa phiền não của chúng ta nổi cháy rần rần, nếu không có giọt nước từ bi của Bồ Tát, chắc hẳn tất cả chúng ta đều phải ch*t thiêu trong lò phiền não.


Từ bi là lòng thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ, không thấy có quý tiện, lòng thương chân thật bình đẳng. Sự quý báu cao cả của nó, chỉ có nước cam lồ mới đủ tính cách tượng trưng. Nước cam lồ chẳng những cứu người qua cơn khát cháy cổ, mà còn đem lại cho người mùi thơm ngon ngọt dịu. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn, mà còn đem lại cho người nguồn an lạc vô biên. Bởi tính chất quý báu vô thượng của nước cam lồ như vậy, nên phải đựng nó trong một cái bình thanh tịnh. Vì của quý bao giờ cũng đựng trong món đồ quý.


Bình thanh tịnh là tượng trưng ba nghiệp trong sạch. Chúng ta ôm ấp lòng từ bi muốn ra cứu độ chúng sinh, nếu thân, miệng, ý chưa trong sạch thì khó mong thực hiện lòng từ bi. Nếu cố gắng thực hiện, một thời gian cũng lạc về danh hay vì lợi. Ví như người có khoa y dược, sẵn sàng chữa trị bệnh khổ cho người, khi những con bệnh được lành, đương nhiên phải có sự đền đáp hay khen ngợi trên báo chí, nếu người ấy ý chưa trong sạch dễ nóng lòng danh lợi. Do đó, dần dần làm hoen ố lòng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện lòng từ bi, điều kiện tiên quyết là ba nghiệp phải thanh tịnh.


Muốn mang nước cam lồ ra rưới mát chúng sinh, phải dùng cành dương làm phương tiện. Bởi vì chúng sinh trong đời này nghiệp chướng quá sâu dày, ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngã, sống vì dục vọng của họ, khó ai làm cho họ hài lòng. Dù người ấy sẵn sàng tiếp giúp họ trong khi khốn đốn, mà họ vẫn không biết ơn, đôi khi còn phản bội. Người sẵn lòng từ bi ra tế độ chúng sinh, nếu thiếu đức tính nhẫn nhục thì sự tế độ khó được viên mãn. Không phải ai ai cũng sẵn sàng đưa tay cho ta dìu ra khỏi con đường nguy hiểm hết đâu, dù họ là những kẻ mù.


Có kẻ tin đưa tay cho ta dìu đi, song giữa đường vấp phải những hòn đá nhỏ, hay chạm những gốc cây, là họ sừng sộ với ta. Có kẻ dìu đi được một đoạn, họ cho là nhọc nhằn khổ sở, không muốn đi nữa, rồi kiếm chuyện làm khó dễ ta. Có kẻ không ưng đưa tay cho ta dìu, lại còn mắng nhiếc ta thậm tệ. Ở những trường hợp đó, dù ta có thiện chí muốn cứu giúp họ thế mấy, nếu thiếu đức nhẫn nhục, thử hỏi ta có thể làm được việc gì?

Bởi thế, người học đạo từ bi trước phải tập đức nhẫn nhục; khi nhẫn nhục được thuần rồi mới ra thực hiện từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục đã vội ra thực hành từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà lại phát sinh sân hận là khác. Cho nên, phải có cành dương rồi, sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sinh.


Để thấy rõ công hạnh từ bi, chúng ta hãy nghe đoạn văn tán dương năng lực nhành dương của Ngài Thiên Thai:


Thùy dương liễu biến sái cam lồ, trừ nhiệt não dĩ giai đắc thanh lương, tầm thinh cứu khổ ư tứ sinh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo, bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng, hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng, cố ngã tri lưu, đoan thừa tịnh quán, thành tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy. Thị thủy giả, phương viên tùy khí, dinh hư nhậm thời, xuân dương đông ngưng, khẩm lưu lương chỉ, hạo hạo hồ, diệu nguyên mạc trắc, thao thao hồ, linh phái nan cùng, bích giáng tàng long, hàn đàm tẩm nguyệt, hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba, hoặc cư Bồ Tát liễu chi đầu sái vi cam lồ, nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh”.


Dịch:


Cầm nhành dương (Ngài) rưới nước cam lồ lên khắp cả, trừ nhiệt não (Ngài) làm cho mọi người đều được tắm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sinh, Ngài thuyết pháp để độ thoát cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng, không nguyện nào mà chẳng thành. Cho nên, chúng con là kẻ xuất gia, an trụ trong tịnh quán, chí thành đọc lại mật ngôn và gia trì pháp thủy. Tịnh thủy này vuông tròn tùy theo bình chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời. Mùa xuân là loãng, mùa đông thì đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mông; nguồn sâu khó lường, chảy mãi thao thao, thật là dòng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá, nước ngâm bóng loài rồng, ở dưới ao thu, nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy này hoặc đọng dưới ngòi bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng ân, hoặc nằm trên đầu nhành dương liễu của vị giác hữu tình để rưới thành cam lồ linh diệu. Chỉ cần một giọt nước rưới lên là mười phương đều được sạch trong”. N. H.


Muốn diễn tả lòng từ bi cao cả của Bồ Tát Quán Thế Âm, tác giả dùng giọt nước nhành dương, thật là linh động biến ảo. Nước không cố định ở một hình thức nào, tùy duyên biến chuyển, có khi là thể lỏng, có khi là thể cứng, có lúc lại biến thành hơi. Nếu chúng ta chấp nước chỉ có ở thể lỏng, tức không hiểu được nước. Không phải chỉ ở một hình thức cố định, mà linh động tùy duyên. Đủ duyên cơ cảm thì Bồ Tát ứng hiện.


Nước khi đọng dưới hồ thu trong xanh in hiện bóng trăng, khi lóng trong khe đá làm nhà của loài rồng, lúc chảy ầm ầm thành suối gào thác đổ, thật không thể lường được diệu dụng của nước. Lòng từ bi của Bồ Tát cũng thế, mênh mông như bể cả bao hàm tất cả chúng sinh, tràn trề như ngọn triều lên mang hạnh phúc cho mọi loài thọ hưởng. Bất cứ nơi nào, chốn nào có cảm thì Bồ Tát đều ứng hiện. Sự ứng hiện tùy theo căn tính chúng sinh, kẻ thấy Bồ Tát ở hình thức này, người cảm Bồ Tát nơi tướng trạng khác. Tựu trong có cảm thông nhất định có linh ứng.


Chỉ một giọt nước (nhỏ mực) đọng dưới ngòi bút của hàng vua chúa cũng đủ làm cho muôn dân thấm nhuần ơn vũ lộ. Hoặc một giọt nước (giọt cam lồ) nằm trên đầu nhành dương liễu của bậc Bồ Tát cũng đủ giải thoát mọi loài chúng sinh. Lòng từ bi không phải chỉ có ở trong tâm Bồ Tát, trong tâm những kẻ tu hành, mà còn có ở trong lòng bậc đế vương, trong lòng kẻ có quyền thế. Cho nên, ai cũng có thể là bậc cứu khổ chúng sinh, miễn họ phát tâm từ bi. Từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu hành, mà nó là của chung tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ bi được, nếu trong lòng chứa sẵn từ bi.


Qua những lời tán dương trên, chúng ta thấy lòng từ bi cao cả khôn lường. Chúng ta lễ tượng đức Quán Thế Âm luôn luôn phải ghi nhớ hai đức tính căn bản của Ngài: nhẫn nhục và từ bi, để đem áp dụng vào bản thân chúng ta. Có thế, sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng.


Tượng Bồ Tát Đại Thế Chí (Bodhisattva Mo hasthanapràta)


Danh hiệu

Theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đại Thế Chí có nghĩa là dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp hết thảy, khiến chúng sinh trong ba đường ác được giải thoát và được năng lực vô thượng.


Tiền thân

Thuở xa xưa ở thế giới Vô Lượng Đức Tựu An Lạc thị hiện có đức Phật hiệu Kim Quang Sư Tử Du Hý ra đời hóa độ chúng sinh.


Trong nước có ông vua hiệu Oai Đức, lấy Chánh pháp trị dân nên cũng gọi là Pháp vương. Trong nước ấy không có người nữ, toàn là do hóa sinh. Vua kính thờ đức Phật Kim Quang Sư Tử Du Hý không biết mỏi nhàm. Một hôm, vua tọa thiền Tam muội, khi xuất định thấy hai hoa sen mọc bên tả hữu, trong mỗi hoa sen có mỗi đồng tử, rồi cùng nhà vua đến Phật nghe pháp. Vua Oai Đức đó là tiền thân Phật Thích Ca, hai vị đồng tử là Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. (Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký Kinh)


Lại một thuở khác, Ngài là con trai thứ của vua Vô Tránh Niệm tên Ni-ma. Ngài được thân thừa cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh, được Phật thọ ký: “Sau này làm Bồ Tát hiệu là Đắc Đại Thế (Đại Thế Chí), phụ tá bên cạnh đức Phật A Di Đà ở cõi Cực-lạc. Và, sau nữa Ngài sẽ thành Phật hiệu là “Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương”, ở thế giới Đại Thế". (Kinh Bi Hoa, quyển ba, phẩm Chư Bồ Tát Bổn Thọ Ký).


Hạnh nguyện

Ngài dùng pháp môn Niệm Phật Tam muội để tự tu và hóa độ chúng sinh. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật Thích Ca hỏi chỗ sở tu sở đắc của các vị La-hán và Bồ Tát, Ngài tự thuật: “Thời đức Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy con niệm Phật Tam muội... Nhơn địa xưa của con dùng tâm niệm Phật nhập vô sinh nhẫn. Nay ở thế giới này, con tiếp độ người niệm Phật về Tịnh độ...”. Đức Quan Thế Âm dùng lòng từ bi lắng nghe tiếng đau khổ đến cứu độ chúng sinh, đức Đại Thế Chí dùng ánh sáng trí tuệ soi đường cho chúng sinh được giải thoát.


Biểu tướng


Ngài đứng bên hữu đức Phật A Di Đà, tướng người cư sĩ cổ đeo chuỗi anh lạc, tay cầm hoa sen xanh. Đây là lối thờ Di Đà tam tông: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả Bồ Tát Quán Thế Âm, bên hữu Bồ Tát Đại Thế Chí.

Mật ý


Bồ Tát hình người cư sĩ để nói lên hạnh nguyện độ sinh của Ngài luôn luôn gần gũi quần chúng. Bởi vì muốn cảm thông nhau thì trước phải cùng hình thức như nhau. Bồ Tát là bạn lành của chúng sinh, cho nên mang hình thức người cư sĩ để dễ lăn lộn trong nhân gian, mà hóa độ họ.


Hoa sen xanh tượng trưng thanh tịnh, tức là đoạn đức. Dùng trí tuệ dứt sạch tất cả phiền não nhiễm ô, cứu vớt chúng sinh lên khỏi vũng bùn ác trược.


Muốn cứu vớt chúng sinh về Tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sinh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế trược ấy, nhiên hậu đưa họ về Tịnh độ.


Mỗi đức Phật đều đầy đủ hai đức tính quan trọng là từ bi và trí tuệ. Thiếu một trong hai đức tính này, không bao giờ thành Phật. Cho nên, thờ tượng tam tông để biểu thị ý nghĩa này. Đức Phật Thích Ca có hai vị Bồ Tát phụ tá là Văn Thù và Phổ Hiền. Ngài Văn Thù tượng trưng trí tuệ. Ngài Phổ Hiền là đại hạnh từ bi. Đức Phật Di Đà cũng thế, có hai Bồ Tát phụ tá là Quán Âm và Thế Chí. Đức Quán Âm tượng trưng từ bi, Bồ Tát Thế Chí tượng trưng trí tuệ. Từ bi ở bên tả, trí tuệ ở bên hữu, để biểu thị trí tuệ lúc nào cũng dẫn đầu thì từ bi mới thành tựu.


Chúng ta thờ Phật, lễ Phật luôn luôn phải học tập và thực hành hai hạnh này. Có thế, sự thờ Phật, lễ Phật mới đầy đủ ý nghĩa.


Tượng Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (Bodhisattva Manjusri)


Danh hiệu

Văn Thù Sư Lợi cũng gọi là Mạn Thù Thất Lỵ, dịch nghĩa là “Diệu Đức, Diệu Cát Tường”. Vì thấy rõ Phật tính, mọi đức đều tròn đầy, không sự ràng buộc nào chẳng dứt, nên gọi Diệu Đức.


Tiền thân

Thuở xưa, Ngài là con thứ ba vua Vô Tránh Niệm tên là Thái tử Vương Chúng. Do cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi và được thọ ký sau này sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chỉ, hiệu là Phật Văn Thù (Kinh Bi Hoa).


Lại, trong Kinh Pháp Hoa chép: "Thời đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Ngài là Bồ Tát Diệu Quang thọ trì Kinh Pháp Hoa. Tám người con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều theo học với Ngài, sau này các vị ấy đều thành Phật, trong số đó có Phật Nhiên Đăng và Di Lặc". (Kinh Pháp Hoa)


Hạnh nguyện

Ngài là vị Bồ Tát hiểu thấu Phật tính, đầy đủ ba đức: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát; hằng đem ba đức ấy giác ngộ chúng sinh. Ngài là hiện thân của căn bản trí, cho nên trong hàng Bồ Tát Ngài là Thượng thủ. Trong các hội thuyết pháp của đức Phật Thích Ca, Ngài luôn hiện thân trợ hóa.


Biểu tướng

Tay mặt Ngài cầm kiếm sắc bén. Tay trái cầm hoa sen xanh. Mình ngồi trên lưng sư tử xanh. Có nơi Ngài hiện tướng người xuất gia, vì với tư cách trợ hoá cùng đức Phật Thích Ca nên phải hiện thân người xuất gia như các vị Tỳ-kheo. Có chỗ thờ Ngài với hình thức người cư sĩ đội mũ, mặc giáp, cầm kiếm. Như Thiện Tài Đồng Tử tán thán:


“Thân mặc giáp nhẫn nhục,

Tay cầm gươm trí tuệ,

Tự tại hàng quân ma,

Xin thương xót cứu vớt tôi.

(Kinh Hoa Nghiêm tập ba, phẩm pháp giới, Hòa Thượng Trí Tịnh dịch)

Thâm ý

Ngài Văn Thù tượng trưng căn bản trí. Tay mặt Ngài cầm kiếm là biểu thị trí đức. Dùng trí tuệ sáng suốt phá tan tất cả vô minh hắc ám. Ánh sáng trí tuệ soi đến đâu, hắc ám tan đến đấy. Như dũng sĩ cầm kiếm bén xông pha trong trận mạc, chiếc liếm lia đến đâu thì đầu giặc rơi đến đấy. Sức trí tuệ vô cùng mãnh liệt, như thanh kiếm báu cứng chắc san sảng, dù chạm phải cùng loại kim khí vẫn không bị khờn mẻ, mà có thể chặt đứt tất cả.


Tay trái Ngài cầm hoa sen xanh, biểu thị đoạn đức. Đối với tự thân cũng do sức trí tuệ dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái, như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm bùn. Bồ Tát không phải người ẩn nơi non cao rừng thẩm, sống trong cảnh thanh tịnh u nhàn, mà là người sống chung với quần chúng, lăn lộn trong đám bụi trần để cứu độ chúng sinh, nên có lúc ra làm vua, có lúc làm quan, cũng có khi làm kẻ tật nguyền cùng khổ... Tuy sống trong dục lạc dẫy đầy, mà Bồ Tát vẫn giữ tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm như người đời. Đó là nhờ trí tuệ dứt sạch tham ái, viên thành đoạn đức.


Chiếc giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục. Nhờ nó nên các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân. Nó che chở cho Bồ Tát vẹn toàn tâm từ bi; bọn giặc sân hận oán thù không thể nào xúc não được hạnh nguyện của Bồ Tát. Bồ Tát không bao giờ rời chiếc giáp nhẫn nhục. Thiếu nó Bồ Tát không thể nào thực hiện được tâm Bồ-đề.


Con sư tử là biểu thị công năng của trí tuệ. Bởi vì sư tử là chúa sơn lâm, một tiếng rống của nó muôn thú đều nép phục. Bồ Tát do trí tuệ viên mãn hay thuyết pháp phá dẹp tất cả tà tuyết. Một phen Chánh pháp vang lên, mọi tà thuyết đều ẩn náu. Như một phen sư tử rống lên thì muôn thú đều Kinh tâm tán đởm.


Chúng ta thờ phụng, đảnh lễ Bồ Tát Văn Thù là để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Lâu rồi, chúng ta mãi sống quay cuồng theo vô minh tham ái, trôi lăn trong biển sinh tử luân hồi, chịu chập chồng muôn nỗi khổ đau. Giờ đây, chúng ta hãy tỉnh dậy, quay về với trí tuệ sẵn có của mình, dùng thanh gươm trí tuệ chặt đứt lưới tham ái để vượt ra khỏi bể khổ thâm sâu. Chỉ có trí tuệ mới đủ công năng cứu ta ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Sau khi tự cứu được mình bằng khả năng trí tuệ, chúng ta lại dùng nó tuyên dương Chánh pháp hóa độ quần mê.

Được vậy, phần tự lợi và lợi tha mới được đầy đủ. Tuy nhiên, người chiến sĩ muốn chiến thắng kẻ thù phiền não, muốn cứu thoát mọi người ra khỏi vòng kiềm hãm của chúng thì lúc nào trong người cũng không rời chiếc giáp nhẫn nhục. Được thế, mới chắc chắn thành công. Cũng vậy, chúng ta muốn tự giác giác tha thì hạnh nhẫn nhục không lúc nào dám xao lãng. Có thực hành được như vậy, mới xứng đáng đảnh lễ đức Văn Thù tay cầm kiếm, mình mặc giáp, ngồi trên lưng sư tử.


Tượng Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (Bodhisattva Vi’ svabhadhra hoặc Samantabhadra)


Danh hiệu

Phổ Hiền là vị hiền rất gần bậc thánh hay giáo hóa khắp tất cả chỗ. Đức độ khắp tất cả pháp giới, khéo hay điều phục thuận thảo gọi là Hiền. Điều thiện vi diệu khắp tất cả chỗ gọi là Phổ.


Tiền thân

Thuở xưa, Ngài là con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm tên là Năng Độ. Do cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh, Ngài được Phật thọ ký sau này tu hạnh Bồ Tát sẽ được tên là Kim Cương Trí Huệ Quang Minh Công Đức và sẽ thành Phật ở thế giới Bất Huyền phương Đông hiệu là Phổ Hiền Như Lai (Kinh Bi Hoa).


Hạnh nguyện

Bồ Tát Phổ Hiền có mười hạnh nguyện lớn:


1. Lễ kính chư Phật

2. Khen ngợi Như Lai

3. Cúng dường khắp cả

4. Sám hối nghiệp chướng

5. Tùy hỉ công đức

6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân

7. Thỉnh Phật thường ở đời

8. Thường theo học Phật

9. Hằng tùy thuận chúng sinh

10. Hồi hướng khắp hết.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện)


Lại, trong hội Lăng Nghiêm, Phật hỏi về căn viên thông, Ngài thuật:


Con đã từng làm con các vị Pháp Vương nhiều như số cát sông Hằng, chư Phật mười phương dạy đệ tử có căn Bồ Tát đều tu hạnh Phổ Hiền, là do con mà đặt tên. Bạch Thế Tôn! Con dùng tâm nghe và phân biệt những hiểu biết của chúng sinh, nếu ở phương khác ngoài số thế giới như cát sông Hằng, có một chúng sinh trong tâm phát minh hạnh Phổ Hiền, khi ấy con cưỡi voi trắng sáu ngà phân thân trăm ngàn đến khắp các chỗ kia. Dù người kia bị nghiệp chướng sâu nặng chưa thấy được con, con ở trong tối xoa đầu, an ủi ủng hộ, khiến người kia được thành tựu...” (Kinh Lăng Nghiêm, chương Phổ Hiền)


Biểu tướng

Căn cứ vào tượng Thích Ca tam tông, Bồ Tát Phổ Hiền hầu bên tả đức Phật Thích Ca, Bồ Tát Văn Thù hầu bên hữu. Bồ Tát Phổ Hiền thờ riêng với hình thức ngư cư sĩ, cưỡi voi trắng sáu ngà, hai tay chắp lại.

Thâm ý

Ngài tượng trưng cho chân lý, Văn Thù tượng trưng chân trí, lý trí dung thông. Hoặc Ngài tượng trưng cho tam muội, Văn Thù tượng trưng cho Bát-nhã. Hoặc Ngài tượng trưng cho hạnh, Văn Thù tượng trưng cho giải, hạnh giải viên dung. Hoặc Ngài tượng trưng cho từ bi, Văn Thù tượng trưng cho trí tuệ. Đức Phật dùng chân trí thâm đạt chân lý, vì thế biểu thị hai vị Bồ Tát phụ tá hai bên. Hoặc đức Phật Bi, Trí viên mãn, nên hai Ngài thường có mặt bên trái, bên phải đức Phật.


Riêng tượng Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên lưng voi trắng sáu ngà để biểu thị hạnh nguyện rộng lớn. Trong các loài thú, về sức mạnh chuyên chở, con voi là mạnh hơn cả. Nó hay chuyên chở người và vật từ chỗ này đến chỗ khác. Bồ Tát Phổ Hiền cũng thế, dùng đại hạnh hóa độ chúng sinh, đưa họ từ bờ mê đến bến giác. Lại, con voi ấy trắng có sáu ngà, biểu thị Bồ Tát tuy còn lăn lộn trong trần để hóa độ chúng sinh, mà nghiệp chướng đã trong sạch.

Sáu ngà là tượng trưng cho lục độ, chèo thuyền lục độ, Bồ Tát cứu vớt chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ. Mặc dù bể khổ mênh mông, chúng sinh vô lượng, Bồ Tát không nại hà mệt nhọc vẫn say sưa cứu vớt không ngừng. Những chiếc chèo bố thí, cánh buồm tinh tấn, mục tiêu thiền định, tay lái trí tuệ mãi hoạt động luôn luôn tiến tới không bao giờ bị sóng gió khiến phải lui sụt.


Chúng ta thờ Bồ Tát Phổ Hiền là thờ chân lý, hằng ngày kính lễ Ngài, chúng ta phải tự tỉnh ăn năn tránh xa mọi ảo vọng, trở về phối hợp với chân lý. Còn gì đau buồn bằng, hằng ngày sống trong chân lý mà chúng ta bị mờ mịt bởi vô minh, rồi lấy vọng làm chân, lấy giả làm thực, càng ngày càng cách xa chân lý. Chúng ta hãy mở mang trí tuệ, nhìn thẳng vào mặt chân lý để được giác ngộ như chư Phật. Có vậy mới xứng đáng là Điều Ngự Tử.


Lại, thờ Bồ Tát Phổ Hiền cũng là thờ Đại hạnh vô biên của chư Bồ Tát. Kính lễ Ngài có nghĩa là chúng ta tôn trọng học đòi theo hạnh nguyện rộng lớn của Ngài. Hãy đập tan đi cái vỏ ích kỷ hẹp hòi của chúng ta để hòa mình trong hạnh nguyện mênh mông của Bồ Tát. Còn đeo đẳng cái vỏ ích kỷ này là còn khổ đau, còn chìm đắm, phải gỡ nó bỏ đi, chúng ta sẽ nhẹ nhàng vượt khỏi muôn lớp trùng dương đến nơi bờ giác an vui. Lòng từ vô hạn, hạnh nguyện vô biên của Bồ Tát là những tiếng còi cảnh tỉnh, kêu gọi chúng ta hãy sống dậy trong đồng thể đại bi, trong chân như vĩnh cửu. Bỏ đi cái vỏ nhỏ nhen, tạm bợ, mà con người đang vì nó tạo nghiệp khổ ngập trời.


Tượng Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng (Bodhisattva Ksitigarbha)


Danh hiệu

Địa Tạng có nghĩa an nhẫn, bất động như đại địa; tư duy sâu xa kín đáo như kho tàng bí mật.


Tiền thân

Thời tượng pháp của đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương, có người con gái dòng Bà-la-môn đầy đủ phước đức, mọi người đều cung kính. Mẹ cô không tin Tam bảo lại khi dể, tuy cô cố gắng giáo hóa mà không thể được. Sau khi mẹ ch*t, vì lòng hiếu thảo cô cúng dường tượng đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương cầu xin biết được mẹ đang sinh về đâu. Vì lòng chí hiếu cảm thông đến Phật, đức Phật dạy cô về nhà đêm đến ngồi nhớ danh hiệu Ngài sẽ biết chỗ mẹ sinh. Làm đúng như lời Phật dạy, cô được thấy cảnh địa ngục và sau rốt biết mẹ cô nhờ phước đức của cô đã được sinh về cõi trời.

Sau khi thấy cảnh khổ đau ở địa ngục, cô phát nguyện: “Bao giờ địa ngục trống không, chúng sinh độ hết, tôi mới thành Phật quả”. Cô gái ấy là tiền thân Bồ Tát Địa Tạng. (Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Công Đức)


Hạnh nguyện

Đức Phật ở trên cung trời Đao Lợi thọ ký Ngài rằng: “Địa Tạng ghi nhớ: Ngày nay tôi ở cõi trời Đao Lợi trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem người, trời, các chúng sinh... chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sinh ấy rơi vào đường ác trong một ngày một đêm...” (Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện công đức, phẩm Chúc Lụy nhơn thiên).


Lại, Kinh Địa Tạng Thập Luận có đoạn:


Người thiện nam này Bồ Tát Địa Tạng, mỗi ngày vào buổi sáng, vì muốn làm thành thục các hữu tình, nhập các thiền định nhiều như số cát sông Hằng, từ định xuất rồi, đi khắp mười phương các cõi Phật làm thành thục tất cả hữu tình đã được giáo hóa, tùy cơ cảm của hữu tình khiến được lợi ích an lạc”. (Địa Tạng Thập Luận Kinh)


Theo Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, đức Phật Thích Ca phó chúc cho Ngài cứu độ chúng sinh sau khi Phật nhập Niết-bàn cho đến lúc đức Di Lặc ra đời. Căn cứ các tiền thân của Ngài, Ngài thường nguyện làm cho địa ngục trống không và độ hết chúng sinh.


Nói về hạnh nguyện của Ngài, chúng ta có thể thấy rõ trong bài tán sau đây:

Khể thủ từ bi đại Giáo chủ:

Địa ngôn: kiên, hậu, quảng hàm tàng.

Nam phương thế giới võng hương vân,

Hương võ, hoa vân, cập hoa võ

Bảo võ, bao vân, vô số chủng

Vi tường, vi thụy, biến trang nghiêm.

Thiên, nhơn vấn Phật thì hà nhân?

Phật ngôn: Địa Tạng Bồ Tát chí!

Tam Thế Như Lai đồng tán ngưỡng,

Thập phương Bồ Tát cộng quy y,

Ngã kim túc thực thiện nhơn duyên,

Tán dương Địa Tạng chân công đức:

Từ nhân, tích thiện,

Thệ cứu chúng sinh.

Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn,

Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại thiên thế giới.

Diêm Vương điện thượng,

Nghiệp kính đài tiền,

Vị Nam Diêm Phù Đề chúng sinh

Tác đại chứng minh công đức chủ

Đại bi, đại nguyện,

Đại thánh, đại từ,

Bổn tôn, Địa Tạng Bồ Tát ma ha tát!


Dịch:

Dập đầu kính lễ đức giáo chủ

Đại từ bi: đức độ của Ngài,

Như đất dày bao hàm rộng khắp

Thế giới phương nam tỏa mây hương

Mưa hương, mây hoa cùng mưa hoa,

Mây báu, mưa báu vô số lớp,

Biến hiện điềm lành khắp trang nghiêm.

Trời, người hỏi Phật nhân gì vậy ?

Phật rằng: Địa Tạng Bồ Tát hiện,

Chư Phật ba đời đều tán ngưỡng.

Mười phương Bồ Tát thảy quy y.

Nhân xưa bồi đắp chút duyên lành,

Nay con tán dương chân công đức:

Địa Tạng Bồ Tát đại từ bi

Góp tập thân lành độ chúng sinh:

Rung tích trượng mở toang địa ngục,

Nâng minh châu soi khắp đại thiên.

Trước đài “nghiệp kính”, điện Diêm Vương,

Vì chúng sinh ở cõi Nam Diêm,

Làm giáo chủ chứng minh công đức.

Nam mô đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ

Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát ma ha tát!

(Ban Hộ Niệm Hội Việt Nam Phật Giáo dịch)


Biểu tướng

Tượng Ngài đúng là người xuất gia, đầu tròn, mặc áo ca sa, tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen, tay trái nắm hạt minh châu.

Thâm ý

Các vị Bồ Tát khác phần nhiều hiện thân cư sĩ, đặc biệt Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vị Tỳ-kheo. Bởi vì bản nguyện của Ngài là cứu thoát chúng sinh ra khỏi địa ngục (cũng có nghĩa ngục tam giới), nên hình ảnh của Ngài là con người giải thoát (xuất gia). Mình có giải thoát mới mong độ thoát chúng sinh được. Qua hình ảnh giải thoát của Ngài, khiến chúng sinh hâm mộ cầu mong Ngài độ thoát. Song muốn giải thoát chúng sinh phải có phương tiện gì? - Trong tay sẵn có tích trượng và minh châu.


Tích trượng là một pháp khí do Phật chế ra. Những vị Tỳ-kheo thời xưa đi khất thực, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng. Tích trượng có hai công dụng:


1. Đến trước cổng nhà người rung tích trượng reng reng, khiến người hay ra cúng dường.


2. Lúc đi đường gặp rắn rết đuổi chúng đi, tránh khỏi tai họa. Trên đầu tích trượng có mười hai khoen tượng trưng mười hai nhân duyên. Đức Phật giác ngộ lý nhân duyên sinh thành bậc Chánh giác. Ngài cũng đem lý nhân duyên giáo hóa chúng sinh ngót bốn mươi chín năm. Muốn được giải thoát trước phải ngộ lý mười hai nhân duyên. Đức Địa Tạng tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa: Ngài luôn luôn dùng pháp thập nhị nhân duyên cảnh tỉnh chúng sinh. Nhờ sự cảnh tỉnh ấy, chúng sinh nhận chân được chân lý, giải thoát vòng sinh tử mê lầm.


Tuy nhiên, muốn thấu rõ lý nhân duyên phải nhờ ánh sáng trí tuệ. Chúng sinh trầm luân mãi mãi bởi vô minh che đậy, không trông thấy pháp duyên sinh như huyễn, chấp thật ngã, thật pháp nên cứ lẩn quẩn trong vòng luân hồi. Muốn phá được vô minh phải phát huy trí tuệ. Trí tuệ tăng trưởng thì vô minh sẽ lùi xa. Biểu thị trí tuệ là viên minh châu trong lòng bàn tay đức Địa Tạng. Viên minh châu ấy soi sáng tất cả chốn u minh làm cho mọi chúng sinh bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát khỏi ngục hình. Cũng vậy, chúng sinh bị giam cầm trong ngục vô minh, một phen phát sinh ánh sáng trí tuệ, ngục thất vô minh liền tan vỡ, mọi người đều được thong dong tự tại.


Chúng ta thờ tượng đức Địa Tạng để nói lên lòng khao khát giải thoát. Sự giải thoát của chúng ta được thành tựu hay không là do trí tuệ nhận chân được lý thập nhị nhân duyên hay không. Nếu chúng ta hằng ngày vận dụng hết tâm tư của mình suy nghiệm pháp thập nhị nhân duyên, một ngày nào đó, thời tiết nhân duyên đến, bỗng nhiên bừng sáng. Đó là chúng ta đã nhờ đức Địa Tạng cứu thoát trong thời không có đức Phật ở đời. Ngược lại, chúng ta cứ đảnh lễ Ngài với ý niệm ỷ lại, dù Ngài có muốn cứu độ chúng ta thế mấy cũng khó bề cứu được. Đức Địa Tạng sẵn sàng cứu độ chúng ta ra khỏi địa ngục, song chúng ta phải có đủ hai yếu tố: phát huy trí tuệ và soi thấu pháp thập nhị nhân duyên. Có thế, công dụng độ sinh của Bồ Tát Địa Tạng mới thực hữu. (HẾT)


Thích Thanh Từ

TIN, BÀI LIÊN QUAN:

Thích Thanh Từ

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/tham-y-qua-hinh-tuong-chu-phat-bo-tat-p2--het-d28659.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY