Trong tác phẩm “Nguồn gốc, nỗi hoài niệm về thuở ban đầu”, là một nhà thiên văn nhưng Trịnh Xuân Thịnh đã viết một câu đầy tinh thần thi ca như thế này: “Qua các thời đại và các nền văn hóa khác nhau con người đã phóng chiếu lên các bầu trời những ước mơ và khát vọng của mình”[1].
Tôn giả Malunkyaputta có lẽ là một trong những người tiền phong không phải chỉ trong lịch sử Phật giáo mà còn cả lịch sử của nhân lọai đã mơ ước và khát khao muốn hiểu biết nguồn gốc về “Những thuở ban đầu” ấy chăng?
Không giống như Blaise Pascal (1623–1662), tư tưởng gia Pháp ở thế kỷ 17 đã hốt hoảng la lên: “Sự im lặng vĩnh cửu của không gian vô hạn này khiến tôi hoảng sợ”[2] mà Malunkyaputta theo kinh Tiễn Dụ: “Trong khi tĩnh tọa nơi chỗ thanh vắng, bỗng nảy ra ý nghĩ: “Có một vấn đề mà lâu nay đức Thế Tôn gác qua một bên không chịu nói đến, ấy là cõi thế gian này là thường hay vô thường, là hữu biên hay vô biên, thần ngã (như nghĩa linh hồn) với thân là một hay khác, đức Như Lai sau khi diệt độ rồi còn có hay không còn có, hay cũng có cũng không, hay chẳng phải có phải không? Ta không thể nào yên tâm không thắc mắc đó được. Nếu đức Thế Tôn một mực nói rõ cho ta biết thế gian là thường, thì ta còn theo Ngài tu học, còn nếu đức Thế Tôn không chịu nói rõ cho ta biết thế gian là thường hay vô thường, thì ta sẽ cật vấn Ngài xong rồi hòan tục không tu theo Ngài nữa” (HT.Trí Đức dịch).
Câu trả lời của đức Phật cho Malunkyaputta là : “Dù có biết được thế gian là thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, Như Lai sau khi diệt độ rồi còn có hoặc không có, hoặc cũng có cũng không hoặc chẳng phải có chẳng phải không thì thế gian này vẩn tiếp tục có sanh, già, bệnh, ch*t, có thống khổ ưu bi vậy”.
Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726)
Đọc câu trên của đức Phật khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ đến những nhà khoa học lừng danh, những Galileo, những Albert Eistein, những Edwin Hubble ..v..v.. đã ôm giấc mộng chinh phục vũ trụ mênh mông này nhưng chưa kịp nhìn thấy những thành tựu vĩ đại của khoa học ngày nay thì đã vĩnh viễn ra đi, đúng như lời than của một sử gia: “Con người hì hục chinh phục trái đất nhưng rồi cuối cùng con người cũng phải gửi nắm xương tàn của mình trong lòng đất lạnh” (Will Durant).
Nhưng với chúng ta những người Đông phương thì điều đó chẳng có gì quan trọng cả, vì như Nguyễn Du đã nói:
Nếu cứ theo lối suy nghĩ thông thường của hầu hết mọi người thì khi một dân tộc hay một hệ thống tư tưởng nào chỉ bận tâm đến việc chinh phục nội tâm để tìm kiếm thanh bình cho tâm hồn như phật giáo nói riêng hay nền minh triết cổ đại ấn độ nói chung chẳng hạn thì vấn đề chinh phục thế giới bên ngoài hoàn toàn bị bỏ quên. nhưng ngược lại với lối suy nghĩ thông thường ấy thì những nhà thiên văn học lỗi lạc hiện nay đã đi đến một kết luận bất ngờ rằng:
“Vũ trụ thần thoại Ấn Độ cũng chứa đựng tư tưởng về sự vô hạn của các vũ trụ, mỗi vũ trụ là sản phẩm của giấc mơ của các vị thần khác nhau. Một lần nữa, quan niệm này lại hoàn toàn trùng hợp với quan niệm đa vũ trụ song song của vũ trụ học hiện đại”[3].
Không chỉ trong giấc mơ của các vị thần trong thần thoại Ấn Độ mới thấy vũ trụ là vô hạn và không phải chỉ có một vũ trụ mà còn nhiều vũ trụ nữa, thì trong Phật giáo, nhất là Phật giáo đại thừa hầu như bất cứ quyển kinh nào cũng đều nói đến “Tam thiên đại thiên thế giới”.
Ví dụ: chỉ có thuật ngữ là giới tạng (dhàtu-garbha) thôi mà tuệ sĩ đã chú giải trong thắng man giảng luận như thế này: “bào thai sản sinh các chủng lọai. đây chỉ thế giới tạng (lokadhàtu-garbha) bào thai sản sinh các chủng lọai thế giới-tam thiên đại thiên thế giới tạng, vũ trụ trong thuyết như lai tạng (tathàgatagarbha) gọi thế giới là giới tạng, vì mọi chủng loại đều được sản sinh từ thai tạng của như lai.
Ba nghìn giới đại thiên giới tạng tương ứng với ba nghìn đại thiên thế giới (trisàhasra-mahàsra-lokadhàtu), bốn châu thiên hạ tức là bốn lục địa (caturdvipà) hợp thành một thế giới. một nghìn thế giới như vậy là một tiểu thiên thế giới (sàhasracùdika-lokadhàtu). một nghìn tiểu thiên hợp thành một trung thiên thế giới (sàhasra-madhyama-lokadhàtu). một nghìn trung thiên hợp thành một đại thiên (sàhasramhàsàhasra-lokadhàtu). ba nghìn đại thiên như vậy được gọi là một cõi phật (buddha-ksetra) phật sát hay phật độ”.
Như vậy khi đức Phật bảo Malunkyaputta rằng: “Điều nào không đáng nói thì ta không nói, điều nào đáng nói thì ta nói, các ông nên như vậy mà thọ trì, như vậy mà tu học”, không có nghĩa là đức Phật ngăn cấm hay không biết gì đến vũ trụ bên ngoài mà Ngài chỉ muốn nhấn mạnh rằng, cứ nỗ lực tu tập đi thì vấn đề sẽ tự giải quyết.
Người dân quê việt nam của chúng ta vốn rất giàu trí tưởng tượng, mỗi khi nhìn lên bầu trời đầy sao họ thấy “một dải lớn màu trắng nhạt hình vòng cung vắt ngang qua bầu trời” (chữ của trịnh xuân thuận) mà người tây phương gọi là “con đường sữa” (voie lactée) thì người dân quê việt nam lại gọi dải sáng này là sông ngân hà.
Rồi từ sông ngân hà này người dân quê việt nam tự bao đời đã tưởng tượng ra một câu chuyện tình vô cùng lãng mạn nữa. đó là câu chuyện tình giữa chàng mục đồng lương thiện có tên là ngưu lang và nàng chức nữ, một trong những công chúa đẹp nhất của ngọc hoàng. hai người yêu nhau say đắm đến nỗi chàng ngưu lang cứ bỏ mặc cho đàn trâu chạy rong khắp các cánh đồng của nhà trời, còn nàng chức nữ thì không còn siêng năng đạp cửi dệt vải bên bờ sông ngân nữa.
Ngọc Hoàng giận quá, bắt hai người phải sống xa nhau. Bên này bờ sông là Ngưu Lang và bên kia là Chức Nữ. Mỗi năm hai người chỉ được Ngọc Hoàng cho phép gặp nhau một lần vào tháng bảy mà thôi. Chính vì thế cho nên mỗi khi gặp nhau Ngưu Lang và Chức Nữ vì quá sung sướng nên đã phát khóc, rồi đến khi sắp chia ly thì buồn thảm đến nỗi nước mắt tuôn như mưa.
Từ đó cứ đến những ngày cuối hạ, khi trên khắp các cánh đồng, các dòng sông đều cạn nước thì người nông dân lại mong đến tháng bảy mưa ngâu. câu “tháng bảy mưa ngâu” mà người dân quê thường gọi bắt đầu từ truyền thuyết trên.
thế giới quan ấy bằng chính quan điểm của mình, hay nói theo giáo sư lê mạnh thát tác giả cntstt thì “thế giới quan này tuy chịu một quá trình phật giáo hóa có ý đồ và chủ mưu, vẫn bộc lộ một cái nhìn hết sức tích cực, về lịch sử hình thành và tiến hóa của thế giới tự nhiên và xã hội lòai người”[4].
Cũng như mọi tác phẩm viết về thế giới quan, thiền sư chân nguyên cũng mở đầu tác phẩm của mình về những ngày đầu tiên của vũ trụ như thế này:
Giống như hầu hết các triết gia Đông Tây xưa nay, Chân Nguyên cũng thử tìm xem cái gì là nền tảng để từ đó vũ trụ vạn vật hình thành. Chẳng hạn như đối với Thalès là nước với Héraclite là lửa với Anaximene De Milet là không khí hoặc là đất, nước, không khí lửa (Empédocle) là nguyên tử (Démecrite) với Pythagore là con số với Anaximandre thì vô cùng hợp thể bất định và vô hạn của bốn yếu tố: Nước, không khí, đất và lửa, hoặc tinh thần siêu việt (Một số triết gia sau khi Thiên Chúa giáo ra đời). Như vậy bản thể của vũ trụ vạn vật có thể là vô hình mà cũng có thể là hữu hình”[5].
Nhưng theo tác giả CNTSTT thì khi viết đoạn trên Chân Nguyên đã: “Chịu ảnh hưởng nặng nề của thuyết sáng thế duy vật thô sơ phát biểu trong Hoài Nam Tử. Đạo bắt đầu trong chỗ mịt mùng, mịt mùng sanh ra vũ trụ, vũ trụ sinh ra khí, khí có nặng nhẹ, trong và nhẹ thì bàng bạc thành trời, nặng và đục thì ngưng tụ lại thành đất. kết hợp trong và mịn thì dễ, còn ngưng tụ nặng và đục thì khó, nên trời thành trước và đất thì lập sau, kết hợp trời đất lại thì khí nó thành âm dương” và như vậy tác giả CNTSTT kết luận: “Chân Nguyên đã sử dụng thuyết sáng thế duy vật thô sơ của Hoài Nam Tử, rồi Phật giáo hóa nó đi bằng cách thêm vào cái ý niệm “Một giọt tỳ lô”.
Theo hai tác giả Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi thì Hoài Nam Tử chỉ là người tiếp nối và hoàn chỉnh thôi, vì triết gia đầu tiên của Trung Quốc chủ trương thuyết duy khí phải là Hà Hưu đời hậu Hán: "Nguyên giả, khí dã. Vô hình dĩ khởi, hữu hình dĩ phân, tạo khởi thiên địa, thiên địa chi thủy giả" (Cái nguyên thủy là khí. Bắt đầu từ vô hình, khi hữu hình thì (Khí) phân bổ mà dựng nên trời đất vậy) [6].
Chúng ta có thể xem câu: “Tự nhiên chấn động khai trương” của Chân Nguyên như một Big Bang của vũ trụ học hiện đại chăng? Bởi vì trước khi “Tự nhiên chấn động khai trương” thì vũ trụ lúc đó chỉ là một khối tối tăm mù mịt chưa có gì hết, chỉ sau khi “chấn động khai trương” rồi thì mới có Tam Hoàng, tức Thiên Hoàng (vua trời), Địa Hoàng (vua đất) và Nhân Hoàng (vua người) và tiếp nữa mới là núi rộng sông dài..v..v..
Tác giả CNTSTT đã rất thẳng thắn khi cho rằng quan điểm của Chân Nguyên trong quá trình hình thành vũ trụ như vậy là hơi ngây thơ và đơn giản, vì sao?
“chân nguyên tiếp thu những khái niệm của thế giới quan mang ít nhiều tính chất duy vật biện chứng ấy, để xây dựng nên một thế giới quan của chính mình, sau khi đã phật giáo hóa nó tới một mức độ nhất định. quá trình phật giáo hóa này diễn ra không phải dựa trên cơ sở những quan điểm rút ra từ kinh sách phật giáo chính thống. trái lại, nó phần lớn đã lặp căn trên một quan niệm phật giáo dân gian, đôi khi tiếp cận với môt tư tưởng ngây thơ và đơn giản quá mức”.
Đúng là ngây thơ và đơn giản. ngưng có lẽ cái ngây thơ và đơn giản đó cũng dễ hiểu thôi, vì vị thiền sư của chúng ta đã sống vào giữa nữa thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, vào thời điểm ấy cả khu vực viễn đông nói chung và việt nam nói riêng vẫn chưa nhận được bất cứ một thông tin nào về những cái ch*t đang gây chấn động khắp các quốc gia tây phương như cái ch*t của bruno (1548-1600) triết gia ý, vì đã dám bác bỏ những giáo điều ngây thơ trong kinh thánh về sự hình thành của vũ trụ, giáo hội la mã đã kết án ông là “muốn lật ngược thế giới” nhưng bruno đã hỏi lại giáo hội là: “nhưng lẽ nào lật ngược thế giới đã bị lật ngược là xấu xa ư?”. khi bị đem lên giàn hỏa để thiêu sống bruno vẩn hiên ngang tuyên bố: “đốt cháy không có nghĩa là bác bỏ”[7].
Và sau đó không bao lâu là Galilê (1554-1642), nhà vật lý, toán, thiên văn học cũng người Ý. Cũng giống như Bruno, khi tòa án Giáo hội La Mã ở Rome, bắt Galilê phải từ bỏ quan điểm của mình về sự hình thành và cấu tạo của vũ trụ, thì Galilê cũng để lại cho đời một câu nói bất hủ đến tận ngày nay: “Dù sao thì nó (trái đất) vẩn còn đang quay kia mà”[8] .
Nếu biết rỏ những thông tin về khoa vũ trụ học này thì vị thiền sư của chúng ta có lẽ đã không vì quá tôn sùng đức phật, dù chỉ là quan niệm phật giáo nhân gian (chứ không phải chính thống) đã gán ghép đức phật vào những việc mà đức phật không bao giờ làm sau đây:
Vậy là chỉ sau khi con người đã có mặt trên mặt đất thì Chân Nguyên mới để Phật xuất hiện. Đức Phật như thế chỉ là người đứng ra xếp đặt lại trật tự cho xã hội lòai người chứ không phải là người đã tạo dựng trời đất và loài người như đức Chúa Trời Jahvé đã làm vào ngày thứ 5 như trong Cựu Ước đã ghi: “Ta hãy làm ra người theo hình ảnh của ta”.
Nhưng ta có thể giả thiết là, nếu như Chân Nguyên có vì quá sùng mộ mà tôn đức Phật như đức Chúa Trời Jahvé, nghĩa là cũng tạo dựng trời đất và loài người thì sự tôn sùng ấy cũng chẳng làm hại đến ai cả, vì lịch sử truyền bá đã từng chứng minh rằng đạo Phật chưa hề ép buộc một dân tộc nào phải từ bỏ tôn giáo của họ để theo Phật giáo cả. Nguyên tắc bất di bất dịch này dường như càng được thực thi một cách nghiêm chỉnh hơn dưới những triều đại mà Phật giáo hòan toàn nắm ưu thế tuyệt đối về quyền lực chính trị, Như dưới triều đại Asoka của Ấn Độ chẳng hạn. Vị hoàng đế này chẳng những đã không ép buộc ai theo Phật giáo mà còn ra một sắc lệnh đặc biệt về tín ngưỡng có những câu như thế này: “Không nên vô cớ đề cao giáo phái của mình, chê bai các giáo phái của người khác. Muốn chê bai thì phải có những lý do vững vàng vì tất cả các giáo phái khác đều có một khía cạnh nào đó đáng cho ta kính trọng”[9].
người dân quê, vốn chiếm hơn tám mươi phần trăm trong xã hội nông nghiệp.
Thấy Quỷ quậy phá như vậy nên Phật liền “Phân doanh” một miếng đất gần sát mé biển cho Quỷ, nhưng hễ ngày nào Quỷ còn ở trên đất liền, dù gần sát bờ biển đi nữa thì Quỷ vẩn tiếp tục tấn công không những với súc vật mà còn cả với con người nữa:
Trước tiên Phật bèn làm một lễ hội nữa để dụ Quỷ vào, Quỷ vào vẫn giữ thái độ hung hăng, ngạo mạn như những lần dự lễ hội trước đó.
Và lại hứa sẽ trả tiền gắp bội nhưng với điều kiện là Quỷ phải ký vào biên bản trước khi Phật giao tiền, Quỷ đồng ý ký:
thế giới tự nhiên, yếu tố phật đóng vai trò của những quy luật, trong khi lãnh vực đấu tranh và hình thành cả hội nó lại đóng vai trò yếu tố nhân dân của lực lượng chính nghĩa mang tính chất tất thắng và lý tưởng.
Từ đó, yếu tố phật ấy có thể thay thế một cách dễ dàng bằng những gì mà nó đã choán mất. một khi đã thực hiện việc thay thế, ta thấy nổi bật ra ngay một thế giới quan hết sức tích cực, trĩu nặng tư tưởng khái niệm và hình ảnh nhân dân. nói rõ ra, thế giới quan ấy có thể là thế giới quan của nhân dân, mà chân nguyên đã trí thức và phật giáo hóa nó đi, để một phần nào nói lên chính thế giới quan của bản thân mình”.
thế giới này là đầy đau khổ nữa, mà chính ngài còn bước xuống khỏi tòa sen để cùng với những con người đau khổ tìm cách giải phóng tất cả những khổ đau mà họ đang còng lưng ra gánh chịu.
Ngoài những lý do trên, những lý do đã khiến cho chân nguyên phải viết hmh để nói lên cái ước mơ của mình là phật giáo phải đóng một vai trò tích cực hơn nữa trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp cho con người trên thế gian này. bây giờ ta thử xem còn một lý do sâu xa nào nữa để chân nguyên phải viết hmh không? tác giả cntstt đã đưa ra một lý do nữa hết sức quan trọng như thế này:
“Cuối cùng cần nói thêm là HMH ra đời chắc chắn nhằm để trả lời thuyết sáng thế duy thần Ki Tô giáo do những tên tay sai phương Tây đội lốp thầy tu như Đờ Rốt với Phép Giảng Tám Ngày. Chính trên bối cảnh của cuộc đấu tranh tư tưởng này mà HMH mặc dù có những hạn chế thời đại và lịch sử của nó vẫn nổi bật lên một cách rõ nét với quan điểm sáng thế ít nhiều mang tính chất nhân dân và duy vật thô sơ. Trong giới hạn ấy, nó đóng một vai trò hết sức thiết yếu cho những người nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ thứ 17”.
Chắc chắn vào thời chân nguyên thì cuộc đấu tranh tư tưởng đã diễn ra khá quyết liệt giữa phật giáo và thiên chúa giáo rồi. trong hương hải thiền sư ngữ lục có ghi lại cuộc đấu lý sôi nổi giữa một bên là thiền sư hương hải với ba vị giáo sĩ thiên chúa giáo có sự chứng kiến của một vị quan lại ở đàng ngoài như sau:
“Một ngày rảnh, trưởng quan lại đến Nguyệt Đường gọi ba thầy giảng đạo với tổ sư, để xem thắng bại thế nào. Ba thầy đạo Hoa Lang, một tên là Tài Gia, một bên là Tài Hựu và tên ba Tài Chi. Trưởng quan hỏi đạo một câu, hỏi Thích một câu ba thầy đạo ba lần không nói được, chỉ còn một Thích nói lời không dứt. Trưởng quan bảo: Đạo không bằng Thích. Hoa Lang ngoa dối lời dụ dỗ để xiêu lòng người, đó gọi là tà đạo, chẳng biết nghĩa lý. Trưởng quan lại bảo, họ Thích thông lời chí lý, có sự có tích, pháp bảo vô biên. Từ đó, ông biết Đạo là ngụy chẳng chân, liền trở về báo lên Thánh Thượng Cửu Trùng. Trải tám tháng, phụng sai quan đuổi Đạo Hoa Lang về nước không được ở chỗ phố Hiến nữa”[10].
Thiền sư Hương Hải sinh năm 1628 và mất năm 1715 còn Chân Nguyên thì sinh năm 1647 và mất năm 1726 được xem như sống cùng một thời. Trong khi đó, các giáo sĩ Thiên Chúa giáo đã chính thức đặt chân đến nước ta từ thời vua Lê Trang Tông của nhà Lê (1533), rồi đến năm 1624 có giáo sĩ Jean Rhodes đến giảng đạo ở Phú Xuân và đã lập ra các giáo đường. Có giáo đường nghĩa là đã có nhiều con chiên, tất nhiên ngoài Phép Giảng Tám Ngày để bài bác Phật giáo ra, thì chắc chắn những lời sau đây trong Cựu Ước cũng được họ khai thác triệt để nhằm hù dọa những kẻ yếu bóng vía nhất là những phật tử không chịu bỏ đạo để theo họ:
“Người phải diệt tất cả các dân tộc mà Jahvé, Đức Chúa Trời sắp giao cho người, mắt người đừng đói thương chúng và người đừng phụng sự các thần của chúng”. (Sách Luật lễ ký, chương 17, tiết 16)
“Khi Jahvé Đức Chúa Trời của người vô cái xứ mà người sẽ làm chủ, tức những dân tộc Hê tít, Ghi-Rê-Ga-Sít, A mô-nít, Ca-Na-An, Phê-Rê-Sít và Giê-Bu-Sít, hết thảy bảy dân tộc đông và mạnh hơn người, khi Jahvé, đức Chúa Trời đã giao phó những dân tộc đó cho người và người đã đánh bại chúng thì người phải diệt chúng cho hết đi. Đừng liên kết với chúng mà cũng đừng thương xót chúng. Người đừng kết sui với chúng, đừng gả con gái cho con trai chúng, đừng cưới con gái chúng cho con trai mình, vì chúng sẽ dụ con trai người lìa bỏ ta, mà phụng sự cho các thần khác, mà cơn thịnh nộ của chúa trời sẽ bùng lên mà diệt người trong nháy mắt đấy. Trái lại người phải đối với bọn chúng như thế này: Lật đổ bàn thờ của chúng đi, đập tan tượng thần của chúng đi, hạ các ngẫu tượng thần của chúng đi, hạ các ngẫu tượng của chúng, đốt những hình chạm của chúng cho hết”[11] (Sách Luật lễ ký, chương 17).
Gần bảy thế kỷ sau, nghĩa là thế kỷ thứ bảy sau TL, ta thấy trong kinh Coran cũng hô hào những lời tương tự như trong Cựu Ước:
“Ta sẽ gieo Kh*ng b* vào lòng những kẻ không thừa nhận (tôn giáo ta) vì những kẻ ấy gán cho Chúa (Allah) những ý xấu mà họ không đưa ra được các bằng chứng. Từ nay ta sẽ sống và ch*t với các người (tức đồ đệ của Mahomed), đời ta là đời của các người, máu của các người là máu của ta, các người thua là ta thua, các người thắng là ta thắng. Và “Hễ tụi dị giáo tấn công các người thì các người sẽ tắm trong bể máu của chúng”[12].
Đọc lịch sử Hồi giáo ta biết được rằng, trước khi trở thành giáo chủ Hồi giáo ở tuổi 40 thì Mahomed lúc còn trẻ làm nghề đi buôn ở Syrie, ông đã gặp một giáo sĩ Thiên Chúa giáo và đã theo đạo này “Rồi khi đi qua tới Medine, gần người Do Thái, Mahomed lại chịu thêm một ảnh hưởng nữa là đạo Do Thái (…) “Thành thử Hồi giáo là sự hỗn hợp của đạo Ki Tô và Do Thái, và cũng thờ một vị thần duy nhất mà Mahomed gọi là Allah”[13].
Từ những dữ kiện trên, ta có thể giả thiết là, nếu như mahomed không gặp một giáo sĩ thiên chúa giáo ở syrie thì có lẽ vùng trung đông không chìm ngập trong máu và nước mắt như hiện nay? và thế giới văn minh tiến bộ sẽ không phải tốn công sức một cách vô ích để chống trả lại những giáo điều cuồng tín mà các tôn giáo nhất thần đã thuyết giảng trong các thánh kinh của họ chăng?
Để trả lời lại một đức chúa trời “nổi cơn thịnh nộ”, một đức chúa trời thúc dục hãy “lật đổ bàn thờ” của những người không cùng tôn giáo với mình, thì thiền sư chân nguyên của nước ta thời bấy giờ đã giảng nghĩa cho người dân quê việt nam biết đức phật mà họ đang tôn thờ như thế này:
Dù HMH “Phần lớn đã lập căn trên một quan niệm Phật giáo dân gian, đôi khi tiếp cận với một tư tưởng ngây thơ giản đơn quá mức” như lời nhận định của Giáo sư Lê Mạnh Thát, tác giả CNTSTT nhưng chắc chắn đó là cái ngây thơ của một kẻ cứ nơm nớp lo sợ rằng một ngày nào đó không xa những tôn giáo chuyên kích động hận thù này sẽ tràn vào đất nước của mình, một đất nước mà kể từ thời lập quốc đến nay đã được nuôi dưỡng trong giáo lý từ bi và trí tuệ của đức Phật.
[13] Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê (Tập 2) NXB văn học TP HCM 2005
Chủ đề liên quan:
hiền sư người dân người dân việt thế giới thế giới quan thiền sư Thiền sư Chân Nguyên