Năm 1994, trong một tài liệu tư vấn, Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố 24 Thuốc được coi là Thuốc chủ yếu để điều trị ung thư… Trị liệu với các Thuốc này đã có kết quả tốt ở một số ít u ác tính và trong trường hợp khác để giảm một vài triệu chứng và kéo dài cuộc sống cho người bệnh.
(SKDS) – Năm 1994, trong một tài liệu tư vấn, Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố 24 Thuốc được coi là Thuốc chủ yếu để điều trị ung thư… Trị liệu với các Thuốc này đã có kết quả tốt ở một số ít u ác tính và trong trường hợp khác để giảm một vài triệu chứng và kéo dài cuộc sống cho người bệnh.
Các
Thuốc chống ung thư
Thuốc chống ung thư (còn gọi là Thuốc độc hại tế bào) dùng điều trị các khối u ác tính. Khi phẫu thuật hoặc xạ trị không thực hiện được hoặc không còn hiệu lực, cũng như làm trị liệu hỗ trợ.
Trị liệu với các Thuốc này đã có kết quả tốt ở một số ít u ác tính và trong trường hợp khác để giảm một vài triệu chứng và kéo dài cuộc sống cho người bệnh. Hai nhóm Thuốc chính được sử dụng là các tác nhân alkyl hóa và các Thuốc chống chuyển hóa. Các tác nhân alkyl hóa chính bao gồm các dẫn chất mù tạt nitơ, hợp chất ethylen imin và các alkyl sulfonat. Một số Thuốc khác như dẫn chất nitrosoure, criplatin và dacarbazin cũng có tác dụng tương tự.
Các Thuốc chống chuyển hóa bao gồm acid folic, purin và các chất đối kháng pyrimidin.
Một số các thành phẩm tự nhiên hoặc dẫn chất đã được dùng do tác dụng ức chế phân bào như các alcaloid vinca, các dẫn chất podophyllotoxin như etoposid, các taxan như paclitaxen và các dẫn chất camptothecin như irinotecan và topotecan.
Một số kháng sinh như mitomycin tác động đến các acid nucleic nên có hiệu lực với một số u ác tính.
Cũng cần kể đến một số Thuốc khác ảnh hưởng đến sự sinh sản và phát triển của các tế bào ác tính như aminoglutethimid, asparaginase, hydroxy urê, mitotan, procarbazin và tamoxifen.
Vào những năm gần đây, y học đã quan tâm nhiều đến các cách miễn dịch học để điều trị u ác tính và một số kháng thể đơn clôn như muromonab-CD3 đã và đang được triển khai. Việc sử dụng các chất biến đổi đáp ứng sinh học như các interleukin tiếp tục được nghiên cứu nhằm tạo ra vaccin chống lại một số u ác tính.
Các glucocorticoid cũng được sử dụng phối hợp với các
Thuốc chống ung thư, đặc biệt trong điều trị các chứng tăng bạch cầu cấp và các u limphô. Sau hết, các hormon Sinh d*c và các dược chất phóng xạ cũng được sử dụng trong trị liệu chống ung thư.
Tác dụng của
Thuốc chống ung thư
Tất cả các
Thuốc chống ung thư giết tế bào ung thư bằng cách ngăn chặn phát triển và phân chia các tế bào ác tính. Vài loại Thuốc gây độc tế bào lafmhorng DNA của tế bào (chất di truyền). Các Thuốc khác ức chế quá trình hóa học trong tế bào cần thiết cho sự phát triển tế bào.
Nội tiết tố giới tính làm gia tăng sự phát triển của một vài tế bào như estrogen làm tăng vài loại ung thư vú). Các chất liên quan đến nội tiết tố này có thể ngăn chặn sự phát triển bằng cách ức chế tác dụng gia tăng của chúng. Sự phát triển của các ung thư khác đôi khi bị chặn bằng nội tiết tố giới tính tổng hợp liều cao.
Tác dụng phụ
Trong giai đoạn đầu mới điều trị có thể nôn ói, tiêu chảy, có khi các tác dụng này khá nặng cần nhập viện.
Thuốc chống ung thư có thể làm thay đổi tỷ lệ phát triển và phân chia tế bào bình thường gây ra rụng tóc và làm giảm số lượng tế bào máu được sản xuất ở tủy xương, gây thiếu máu, dễ bị nhiễm trùng và xuất huyết bất thường. Cần xét nghiệm máu đều đặn để kiểm tra sự sản xuất tế bào máu.
Để giảm đến mức độ tối thiểu các tác dụng này,
Thuốc chống ung thư được cho trong giai đoạn ngắn với thời gian nghỉ giữa 2 kỳ để cho tế bào bình thường phục hồi.
Năm 1994, trong một tài liệu tư vấn, Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố 24 Thuốc sau đây được coi là Thuốc chủ yếu để điều ung thư gồm: asparaginase cho chứng tăng bạch cầu - limpho cấp; bleomycin cho các ung thư tế bào gốc, bệnh Hodgkin và sarcoma Kaposi; cisplatin cho ung thư biểu mô buồng trứng, ung thư phổi tế bào nhỏ… và để làm giảm với các ung thư ở đầu, cổ họng, bàng quang…; cyclophosphamid cho ung thư vú, sacoma Ewing và giảm đỡ cho chứng tăng bạch cầu mạn; cytarabin cho các u limphô không Hodgkin và Ewing; daunorubicin cho các chứng tăng bạch cầu không limphô-cấp; doxorubicin cho bệnh Hodgkin và ung thư vú, sarcoma xương…; etoposid cho các ung thư tế bào gốc và ung thư phổi tế bào nhỏ; fluorouracil cho ung thư vú, ruột kết và trực tràng…; hydroxy urê để giảm đỡ cho chứng tăng bạch cầu tủy mạn; mercaptopurin cho chứng tăng bạch cầu limphô cấp; mustin cho bệnh Hodgkin; methotrexat cho chứng tăng bạch cầu limphô cấp, ung thư vú, sarcoma xương…; mittomycin để giảm đỡ cho ung thư hậu môn, procarbazin cho bệnh Hodgkin; tamoxifen cho ung thư vú; vinblastin cho bệnh Hodgkin, sarcoma kaposi và vincristin cho tăng bạch cầu limphô cấp, u Wilm…
Danh sách trên còn bao gồm cả calci folinat chỉ định cho các di căn ở ruột kết trực tràng (cùng với fluorouracil); levalmisol để bổ trợ cho ung thư ruột kết và prednisolon trong các chứng tăng bạch cầu, u limphô và các chứng đa tủy.
Xu hướng tìm hiểu quá trình ác tính hóa ở tế bào, trong đó có sự tương tác giữa tế bào tiền ác tính với môi trường nhằm phục hồi quá trình điều hòa phát triển tế bào là cách tiếp cận hứa hẹn đem lại hiệu quả điều trị cao cho các trường hợp ung thư.
|
DS.Thế Hiệp