Ung thư xương là gì?
Ung thư xương là sự xuất hiện một khối u ác tính ở trong xương. Những khối u này thường phát triển rất mạnh và cạnh tranh với những mô xương lành, có thể đe dọa tới tính mạng của người bệnh.
Ung thư xương có thể là nguyên phát (ung thư phát sinh tại chỗ) hoặc ung thư xương thứ phát (di căn từ cơ quan khác đến xương). Bác sĩ Trần Quốc Khánh, Khoa phẫu thuật cột sống, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, cho biết bệnh ung thư xương rất hiếm gặp, đặc biệt là nhóm ung thư xương nguyên phát chỉ chiếm khoảng 0,5%. Bệnh hầu hết gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi (từ 10 đến 25 tuổi). Nguyên nhân chủ yếu của ung thư xương nguyên phát là do rối loạn di truyền liên quan đến quá trình phân bào có gene biến dị. Một số nguyên nhân khác bao gồm bức xạ ion hóa trong quá trình xạ trị, chấn thương...
Ung thư xương thứ phát hay gặp hơn, thường ở người lớn tuổi. Theo bác sĩ Khánh, loại ung thư hay di căn đến xương khớp nhất là ung thư phổi, chiếm khoảng 30%, tiếp đến là ung thư vú ở nữ giới (khoảng 24%), đa u tủy xương (13%), ung thư đường tiêu hóa (9%) và ung thư tiền liệt tuyến ở nam giới (8%).
Các loại ung thư xương thường gặp:
Ung thư xương thường có 3 loại chính, bao gồm:
Sarcoma xương: thường xuất hiện ở mô dạng xương- một mô có cấu trúc gần giống với xương, tuy nhiên nó có ít lượng khoáng chất hơn. Vị trí xuất hiện ung thư thường ở đầu gối và cánh tay.
Sarcoma sụn: ung thư ở mô sụn, xuất hiện hầu hết ở các vị trí như xương chậu, xương đùi và vai.
Ung thư có tính chất gia đình Ewing Sarcoma (ESFTs): thường xuất hiện ở xương hoặc mô mềm (cơ, mô sợi, mô mỡ, mạch máu hoặc các mô nâng đỡ khác). Vị trí xuất hiện thường ở dọc xương sống, xương chậu, ở cánh tay hoặc cẳng chân.
Nguyên nhân gây bệnh ung thư xương:
Có thể nói, nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh ung thư xương là do rối loạn di truyền liên quan đến quá trình phân bào có gen biến dị. Trẻ em đang ở độ tuổi phát triển xương là đối tượng chính của bệnh. Hầu hết là những đứa trẻ ở độ tuổi từ 12 đến 20 tuổi.
Bên cạnh đó, còn có một số nguyên nhân khác dẫn đến ung thư xương, bao gồm:
Bức xạ ion hóa: khi tiếp xúc nhiều với các tia ion hóa trong quá trình xạ trị sẽ dẫn tới sự biến đổi của các tế bào, gây ra tình trạng ung thư xương.
Chấn thương: ung thư xương cũng có thể xảy ra nếu bị va chạm mạnh hoặc ảnh hưởng bởi những tác động bên ngoài trong một thời gian nhất định.
Biểu hiện của ung thư xương:
Bệnh ung thư xương bao gồm 3 cấp độ: nhẹ, trung bình và nặng. Ở mỗi giai đoạn sẽ có những dấu hiệu và biểu hiện bệnh khác nhau. Thường ở giai đoạn đầu, bệnh nhân sẽ khó phát hiện ra bệnh, vì các triệu chứng đều biểu hiện mờ nhạt, không rõ ràng. Ở cấp độ nặng, các triệu chứng sẽ bộc lộ rõ rệt hơn, và người bệnh có thể dễ dàng nhận thấy. Các triệu chứng này bao gồm:
Đau đớn: Đây là dấu hiệu đầu tiên có thể báo hiệu người bệnh đang có nguy cơ bị ung thư xương. Trong giai đoạn đầu sẽ chỉ đau nhẹ, các cơn đau không liên tục. Cho đến khi bệnh phát triển ngày một nặng, tần suất các cơn đau sẽ tăng dần và thường xuyên hơn. Hầu hết, các cơn đau thường ập đến vào ban đêm, ảnh hưởng đến giấc ngủ của người bệnh. Tuy nhiên, bạn khó có thể xác định được vị trí chính xác của cơn đau, vì nó xảy ra rất mơ hồ.
Sưng hoặc nổi u cục: Trong giai đoạn đầu của bệnh, khi khối u xuất hiện, bạn sẽ sờ thấy xương bị biến dạng và bị sưng lên. Khi tình trạng sưng ngày một nặng lên sẽ làm cho mô xương nhô ra ngoài, bề mặt trơn bóng hoặc lồi lõm bất thường. Những khối u này sẽ gây ra cảm giác đau nhức và bứt rứt ở trong xương. Vùng da ở khối u có màu hồng và ấm hơn những vùng khác.
Rối loạn chức năng xương: tình trạng sưng và những cơn đau gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chức năng xương, gây ra các triệu chứng teo cơ tương ứng kèm theo.
Triệu chứng bị nén ép: khối u phát triển trong khoang sọ và khoang mũi có thể gây chèn ép vào não và mũi, dẫn tới triệu chứng áp lực não chậm chạp và phát sinh một số vấn đề về hô hấp. Khối u ở vùng chậu đè nén vào trực tràng, bàng quang và ruột sẽ gây khó tiểu; khối u trong tủy đè nén vào cột sống có thể gây tê liệt.
Cơ thể bị biến dạng: khối u phát triển mạnh sẽ ảnh hưởng đến hệ xương chi, gây ra dị tật, biến dạng cơ thể, các chi dưới thay đổi bất thường.
Gãy xương: khu vực xương bị ung thư khi xảy ra va chạm mạnh rất dễ bị gãy, có thể gây liệt chân.
Đau nhức toàn thân: xuất hiện những dấu hiệu như khó ngủ, chán ăn, bơ phờ, xanh xao, sụt cân đột ngột,...
Cơ thể suy nhược trầm trọng: những bệnh nhân ở giai đoạn cuối thường tăng lượng canxi trong máu và gặp những vấn đề như mệt mỏi, chóng mặt, chán ăn, buồn nôn, làm cho cơ thể bị suy nhược nhanh chóng. Bên cạnh đó, khi khối u di căn sang các bộ phận khác, chẳng hạn như phổi sẽ gây ra tình trạng ho dai dẳng, khó thở, tràn dịch màng phổi. Khối u di căn lên gan gây vàng da, vàng mắt, gan to, nước tiểu sậm màu.
Việc điều trị ung thư xương hiện nay được thực hiện theo 3 phương pháp:
Phương pháp phẫu thuật: Với người pháp này được thực hiện cho những bệnh nhân bị ung thư xương giai đoạn đầu được các bác sĩ chỉ định cắt bỏ khối u và phần xương lành, mô lành xung quanh khối u đó. Sau khi thực hiện xong ca phẫu thuật, người bệnh sẽ được sử dụng miếng kim loại để thay thế chức năng của phần xương đã bị mất đó. Với những bệnh nhân ung thư xương giai đoạn giữa, người bệnh sẽ được chỉ định cắt bỏ toàn bộ chi, phẫu thuật đoạn chi để làm giảm nguy cơ tế bào ung thư di căn hoặc tái phát .
Phương pháp hóa trị: Sử dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại này sẽ giúp người bệnh đạt được hiệu quả cao trong quá trình điều trị. Người bệnh sẽ được sử dụng kết hợp, việc hóa trị trước khi phẫu thuật sẽ giúp thu nhỏ kích thước khối u đồng thời hỗ trợ tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại sau khi thực hiện phẫu thuật.
Phương pháp xạ trị: Với một số bệnh nhân bị ung thư xương giai đoạn cuối có tiên lượng xấu thì cần phải điều trị kết hợp phẫu thuật, hóa trị và xạ trị để giúp bệnh nhân giảm bớt các cơn đau đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Quỳnh Hoa
Theo tạp chí Sống khỏe
Chủ đề liên quan: