Đây là bệnh lây truyền qua đường T*nh d*c, hậu quả không những tác động đến người mẹ mà còn ảnh hưởng đến trẻ được sinh ra nên cần được quan tâm để phòng ngừa.
Nguy cơ giang mai bẩm sinhBệnh giang mai có đặc điểm diễn biến nhiều năm, thậm chí có khi mang bệnh suốt đời. Bệnh có lúc xảy ra rầm rộ thành từng đợt với những tổn thương lâm sàng đặc biệt, có khi ngấm ngầm không có triệu chứng lâm sàng làm cho người bệnh chủ quan nghĩ là bệnh đã khỏi. Vì vậy nếu không được điều trị, bệnh có thể làm thương tổn các phủ tạng, nhất là da, tim mạch và thần kinh trung ương; chúng gây ra nhiều biến chứng với những hình thái khác nhau nên rất khó cho việc chẩn đoán và điều trị. Hiện nay, tệ nạn M*i d*m đang có xu hướng phát triển ở một số địa phương không được kiểm soát tốt nên giang mai là bệnh lây truyền chủ yếu qua đường T*nh d*c sẽ cùng đồng hành với các bệnh lây truyền qua đường T*nh d*c khác nếu người dân không thực hiện hành vi quan hệ T*nh d*c bảo đảm an toàn. Nếu người phụ nữ mắc bệnh giang mai, khi mang thai sẽ sinh ra trẻ bị bệnh
giang mai bẩm sinh hay nói một cách khác do thai nhi bị lây nhiễm bệnh giang mai từ người mẹ nên lúc chào đời trẻ đã mang sẵn bệnh giang mai dưới nhiều hình thái khác nhau.Bệnh
giang mai bẩm sinh sớm thường xuất hiện trong 2 năm đầu đời của trẻ, còn
giang mai bẩm sinh muộn thường xuất hiện khi trẻ trên 3 tuổi. Thực tế các tổn thương của bệnh giang mai ở thai nhi đã có một quá trình tác động khá lâu nên sau khi được sinh ra trẻ đã mang sẵn những di chứng bệnh lý như trán dô, mũi tẹt hình yên ngựa, xương chày lưỡi kiếm; có dấu hiệu tam chứng Hutchison, gồm răng Hutchison, điếc nhất thời và lác quy tụ.
Con đường dẫn đến giang mai bẩm sinhNgười phụ nữ mắc bệnh giang mai trong thời kỳ mang thai sẽ có những đặc điểm bệnh lý lâm sàng khác biệt như nốt săng giang mai của thời kỳ thứ nhất khi khu trú ở phần môi nhỏ của âm hộ thường có kích thước lớn hơn bình thường. Trái lại, phần lớn các triệu chứng khác của bệnh giang mai ở phụ nữ có thai lại không rõ rệt bằng ở phụ nữ không có thai. Đặc biệt các tổn thương của giang mai thời kỳ thứ hai thường không có đặc điểm riêng nên khó phát hiện. Vấn đề này rất nguy hiểm vì người phụ nữ mang thai không biết mình có bệnh nên không điều trị, do đó dễ truyền bệnh cho thai nhi gây
giang mai bẩm sinh.Giang mai không phải là bệnh di truyền mà do người mẹ mắc bệnh giang mai lây truyền sang cho thai nhi. Sự lây truyền này không xảy ra trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén mà chỉ xảy ra từ tháng thứ 4 - 5 của thai kỳ; đây là khoảng thời gian nhau thai cho phép máu của người mẹ dễ dàng trao đổi với máu của thai nhi, chính nhờ đó mà xoắn khuẩn giang mai có thể xâm nhập vào thai nhi qua mạch máu rốn rồi gây bệnh. Như vậy, người cha mắc bệnh giang mai không thể truyền bệnh trực tiếp cho con mà phải thông qua người mẹ mắc bệnh giang mai, người mẹ có thể bị lây nhiễm bệnh từ người cha mắc bệnh. Nói một cách khác, khi gặp trẻ mắc bệnh
giang mai bẩm sinh thì chắc chắn rằng người mẹ có bệnh giang mai. Tùy theo mức độ nhiễm bệnh giang mai nặng hay nhẹ mà các biểu hiện của bệnh
giang mai bẩm sinh có những nét khác nhau. Nếu thai nhi bị nhiễm xoắn khuẩn giang mai một cách ồ ạt, thai nhi không thể sống được và sẽ bị sảy thai vào tháng thứ 5 - 6. Nếu trình trạng nhiễm xoắn khuẩn ở mức độ nhẹ hơn thì trẻ có thể sẽ bị đẻ non và rất khó sống sót. Khi mức độ nhiễm bệnh còn nhẹ hơn nữa, trẻ mới sinh trông có vẻ bình thường nhưng sau vài ngày hoặc từ 6 - 8 tuần sau sẽ xuất hiện những tổn thương giang mai thường mang tính chất của giang mai thời kỳ thứ hai; có khi là những bọng nước ở lòng bàn tay và bàn chân, vết nứt ở mép hoặc quanh lỗ mũi, chảy nước mũi lẫn máu, khó thở... Đây là những biểu hiện của dấu hiệu bệnh lý
giang mai bẩm sinh sớm, thường xuất hiện khi trẻ dưới 2 tuổi. Đặc biệt, thường trong 6 tháng đầu sơ sinh của trẻ bị nhiễm bệnh có thể gặp chứng viêm xương và sụn ở các xương dài với những triệu chứng như: xương to, đau các đầu xương, làm trở ngại vận động các chi hay viêm xương sụn giả liệt Parrot với triệu chứng đau ở đầu xương dài về đêm do đầu xương rời khỏi thân xương dẫn đến liệt; khi trẻ được 2 tuổi có thể xuất hiện chứng viêm xương và màng xương ở các đốt ngón tay, ngón chân.Thực tế
giang mai bẩm sinh có thể xuất hiện chậm hơn khi trẻ trên 2 tuổi, thậm chí tới 5 - 6 tuổi hoặc ở tuổi trưởng thành. Đây là
giang mai bẩm sinh muộn với biểu hiện giống giang mai thời kỳ thứ ba hoặc thứ hai của loại giang mai mắc phải. Có trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, gọi là thời kỳ giang mai kín. Việc chẩn đoán phải dựa vào kết quả xét nghiệm huyết thanh dương tính hoặc căn cứ vào các dấu hiệu như: viêm mống mắt xuất hiện ở tuổi dậy thì bắt đầu bằng triệu chứng nhức mắt, sợ ánh sáng, chói mắt ở một bên rồi sau đó lan ra cả hai bên, có thể dẫn đến mù mắt; viêm khớp gối nước ở cả hai bên, không đau, xuất hiện một cách lặng lẽ lúc khoảng 10 - 20 tuổi; điếc ở cả hai tai bắt đầu từ 10 tuổi thường kèm theo chứng viêm mống mắt kẽ; tổn thương xương với biểu hiện thủng vòm miệng, mũi tẹt, trán dô, xương chày lưỡi kiếm.
Phát hiện người mẹ mắc bệnh giang maiViệc khám cho người mẹ để phát hiện bệnh giang mai trong 18 tuần đầu tiên của thời kỳ thái nghén rất quan trọng để chữa trị kịp thời cho người mẹ và phòng tránh trẻ sinh ra đời bị bệnh
giang mai bẩm sinh. Theo các nhà khoa học, tình trạng nhiễm xoắn khuẩn giang mai ở người mẹ càng gần ngày sinh đẻ bao nhiêu thì nguy cơ gây bệnh cho đứa con càng lớn bấy nhiêu và hậu quả lại càng trầm trọng thêm. Vì vậy trong thực tế thường thấy, phần lớn các người mẹ mang thai bị giang mai thời kỳ thứ nhất và thứ hai đều sinh ra những đứa trẻ bị bệnh
giang mai bẩm sinh, nhiều trẻ ch*t khi vừa mới chào đời hoặc ít lâu sau đó. Trái lại, những đứa trẻ là con của các bà mẹ mắc bệnh giang mai đã chuyển sang thời kỳ giang mai kín có thể không bị bệnh
giang mai bẩm sinh hoặc bị một thể bệnh giang mai riêng nhẹ hơn và không có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng trước mắt.
Điều trị và phòng bệnh giang mai bẩm sinhĐiều trị bệnh
giang mai bẩm sinh chủ yếu là sử dụng loại kháng sinh penicilline. Theo các nhà khoa học, trẻ em thường ít dung nạp procaine nhất là trẻ dưới 30 tháng tuổi, vì vậy không nên dùng loại penicilline procaine. Đối với
giang mai bẩm sinh sớm ghi nhận ở trẻ từ 2 tuổi trở xuống, nếu xét nghiệm dịch não tủy bình thường sử dụng benzathine penicilline G với liều lượng 50.000 đơn vị/kg trọng lượng cơ thể, tiêm bắp thịt liều duy nhất; nếu xét nghiệm dịch não tủy bất thường sử dụng benzyl penicilline G với liều lượng 50.000 đơn vị/kg trọng lượng cơ thể tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt 2 lần mỗi ngày và dùng trong 10 ngày. Đối với
giang mai bẩm sinh muộn ghi nhận ở trẻ trên 2 tuổi sử dụng benzyl penicilline G với liều lượng từ 20.000 đến 30.000 đơn vị/kg trọng lượng cơ thể, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt chia 2 lần mỗi ngày, dùng trong 14 ngày. Nếu gặp trường hợp dị ứng với Thu*c penicilline, có thể sử dụng Thu*c erythromycine với liều lượng từ 7,5 - 12,5 mg/kg trọng lượng cơ thể uống 4 lần mỗi ngày, dùng trong 30 ngày. Xác định điều trị có hiệu quả khi định lượng hiệu giá kháng thể sau điều trị giảm xuống. Việc xét nghiệm RPR (rapid plassma reagin) là xét nghiệm sàng lọc kháng thể trong máu thường được áp dụng cho các trường hợp mắc bệnh giang mai do lây nhiễm qua đường T*nh d*c thực hiện lại nên được tiến hành vào tháng thứ 3, thứ 6 và thứ 12 sau khi hoàn thành việc điều trị.
Lời khuyên của thầy Thu*cĐể phòng ngừa bệnh
giang mai bẩm sinh, cần phát hiện sớm và điều trị kịp thời cho người mẹ mắc bệnh giang mai trong thời kỳ mang thai. Phải thực hiện xét nghiệm phản ứng huyết thanh một cách có hệ thống cho tất cả các phụ nữ mang thai vì bệnh giang mai càng chữa trị sớm thì càng có hiệu quả và không để lại biến chứng. Lưu ý giang mai là một bệnh dễ lây nhiễm và gây những biến chứng ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, vì vậy các người mẹ có dấu hiệu của bệnh giang mai cần phải được điều trị trước khi có con để tránh ảnh hưởng đến đứa trẻ khi được sinh ra.
TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH