Theo các chuyên gia, thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công tác DS-KHHGĐ. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ trên 2%/năm 1993 xuống còn 1,08% năm 2016. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em giảm nhanh. Tỷ lệ sử dụng biện pháp năm 2017 là 76%, trong đó tỷ lệ sử dụng các biện pháp hiện đại là 57%.
Bên cạnh đó, theo kết quả cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 vừa được công bố mới đây, tỷ suất ch*t trẻ em dưới 1 tuổi và tỷ suất ch*t trẻ em dưới 5 tuổi đều giảm mạnh trong vòng 2 thập kỷ qua. Tỷ số Tu vong mẹ là 46 ca trên 100.000 trẻ sinh sống, giảm 23 ca so với năm 2009…
Cán bộ dân số y tế tiếp thị về các sản phẩm, phương tiện Tr*nh th*i theo Đề án xã hội hóa phương tiện Tr*nh th*i, hàng hóa sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình. Ảnh TL
Các kết quả công tác DS-KHHGĐ đạt được đó góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là đóng góp vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện đời sống nhân dân.
Nhờ thành công của chương trình DS-KHHGĐ, đã hạn chế việc tăng thêm 20 triệu người trong những thập kỷ qua, đã tiết kiệm các khoản chi cho các dịch vụ xã hội.
Tuy nhiên, thách thức trong công tác dân số thời gian tới là rất lớn. Trong những năm tới, số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nước ta vẫn tiếp tục gia tăng và đạt cực đại vào năm 2027 – 2028. Do vậy nhu cầu các phương tiện Tr*nh th*i, nhu cầu KHHGĐ vẫn gia tăng.
Đặc biệt, tỷ lệ Ph* thai, bao gồm cả Ph* thai ở vị thành niên, thanh niên còn cao. Tình trạng Ph* thai lặp lại còn khá phổ biến; tỷ lệ vô sinh, nhất là vô sinh thứ phát đang có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, tình trạng sinh con ở tuổi chưa thành niên vẫn còn tồn tại ở Việt Nam. Trong khi đó, dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản còn một số hạn chế.
Từ những thực trạng trên, các chuyên gia nhấn mạnh, giải quyết các nhu cầu chưa được đáp ứng về KHHGĐ chính là một trong những cách thức đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
Trong đó, phòng Tr*nh th*i an toàn mang lại rất nhiều lợi ích như giúp phụ nữ chủ động trong việc sinh đẻ của mình như chủ động trong thời gian sinh đẻ, khoảng cách sinh và số lượng con sinh ra; tránh được những tai biến sản khoa và không bị các bệnh lây truyền qua đường T*nh d*c. Bên cạnh đó, phòng Tr*nh th*i giúp mỗi gia đình có đủ 2 con, không sinh quá nhiều. Từ đó, có điều kiện để chăm sóc, giáo dục con cái tốt hơn. Nâng cao được đời sống, kinh tế của mỗi gia đình.
Phát biểu tại sự kiện hưởng ứng Ngày Tr*nh th*i thế giới năm 2019, ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ cho biết, trong thời gian tới, việc thực hiện các mục tiêu về KHHGĐ tiếp tục là một nội dung quan trọng của công tác dân số, đặc biệt là chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ, đảm bảo đáp ứng đầy đủ và đa dạng các phương tiện Tr*nh th*i, xã hội hóa dịch vụ và phương tiện Tr*nh th*i, đảm bảo tiếp cận dịch vụ thuận tiện, dễ dàng, giá cả phù hợp đối với các nhóm dân cư khác nhau;
Bên cạnh đó, dần xóa bỏ khác biệt trong tiếp cận dịch vụ KHHGĐ giữa các vùng địa lý khác nhau nhằm mang lại lợi ích cho toàn bộ người dân, đặc biệt là cho đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào hiện đang sinh sống tại các vùng sâu vùng xa.
Để việc đa dạng hóa phương tiện Tr*nh th*i và hàng hóa kế hoạch hóa gia đình/sức khỏe sinh sản sẽ theo phân khúc thị trường, chú trọng vào các phương tiện Tr*nh th*i hiện đại có tác dụng lâu dài mang lại hiệu quả tốt nhất, theo lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ thời gian tới, cần tập trung củng cố và phát triển mạng lưới cung ứng phương tiện Tr*nh th*i và hàng hóa kế hoạch hóa gia đình/sức khỏe sinh sản trên cơ sở huy động sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức, tư nhân thuộc các thành phần kinh tế theo phân khúc thị trường.
Bên cạnh đó, tăng cường truyền thông chuyển đổi hành vi để nâng cao hiểu biết từ "bao cấp, miễn phí" sang "mua, bán" phù hợp với khả năng chi trả và điều kiện của từng người.
Mai Thùy
Chủ đề liên quan:
cung ứng dân số Đề án 818 mạng lưới phát triển phương tiện tránh thai thị trường tránh thai