Theo GINA (Global Initiative for Asthma) 2002 thì hen phế quản là một bệnh lý viêm mạn tính của phế quản trong đó có sự tham gia của nhiều tế bào và nhiều thành phần tế bào. Viêm mạn tính gây nên một sự gia tăng phối hợp đáp ứng phế quản dẫn đến những đợt tái diễn với biểu hiện: khó thở, ran rít và ho đặc biệt xảy ra ban đêm hay vào sáng sớm. Những đợt này thường phối hợp với tắc nghẽn phế quản lan rộng, sự tắc nghẽn này thường có tính chất hồi phục tự nhiên hay do điều trị.
Hen phế quản là một bệnh thường gặp, xuất hiện ở mọi lứa tuổi, trẻ em chiếm đa số so với người lớn, tỉ lệ 2/1. Những nghiên cứu dịch tễ học trong những năm gần đây cho thấy tần suất trung bình khoảng 5%, trẻ em dưới 5 tuổi 10%. Rất nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy tần suất này gia tăng gấp 3 - 4 lần trong những thập niên qua.
Độ lưu hành hen phế quản tại Pháp trong lứa tuổi 18 - 65 tuổi là 3,9% (Charpin và CS 1987, Maladies respiratoires 1993, tr 335), tại ý trong lứa tuổi 5-64 tuổi là 5% (Paolette và CS 1989, Maladies respiratoires 1993, tr.335).
Dị ứng nguyên hô hấp: là bụi nhà, các loại bọ nhà như Dermatophagoides ptéronyssimus, bụi chăn đệm, lông móng các loài gia súc như chó, mèo, chuột, thỏ..., phấn hoa, cây cỏ, hay nghề nghiệp trong các xưởng dệt.
Dị ứng nguyên là Thu*c: aspirin, kháng viêm không steroid, penicillin; một số phẩm nhuộm màu và chất giữ thực phẩm.
Vi khuẩn thường gặp là Streptococcus pyogenes, Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus...
Rối loạn nội tiết: trong thời kỳ trưởng thành, thời kỳ trước kinh nguyệt, lúc mang thai, thời kỳ mãn kinh.
Là quá trình cơ bản trong cơ chế hen phế quản, bắt đầu từ khi dị ứng nguyên lọt vào cơ thể tạo ra phản ứng dị ứng thông qua vai trò của kháng thể IgE. Những tế bào gây viêm phế quản bao gồm tế bào mast, bạch cầu đa nhân (ái toan, ái kiềm, trung tính), đại thực bào phế nang, bạch cầu đơn nhân, lympho bào và tiểu cầu phóng thích các chất trung gian hoá học gây viêm như histamin, serotonin, bradykinin, thromboxan, prostaglandin, leucotrien, PAF và một số interleukin.
Do tác động của các chất trung gian hoá học gây viêm và vai trò của hệ thần kinh tự động: hệ cholinergic, hệ adrenergic và hệ không cholinergic - không adrenergic.
Xảy ra sau khi dị ứng nguyên vào cơ thể, qua tác động của các tế bào gây viêm. Đây là một trạng thái bệnh lý không đặc hiệu cho hen phế quản.
Cơn hen phế quản thường xuất hiện đột ngột vào ban đêm, nhất là nửa đêm về sáng, thời gian xuất hiện tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như tiếp xúc dị ứng nguyên hô hấp, thức ăn, gắng sức, không khí lạnh, nhiễm virus đường hô hấp trên... Các tiền triệu như ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước mũi, nước mắt, ho từng cơn, bồn chồn... nhưng không phải lúc nào cũng có.
Sau đó, cơn khó thở xảy ra, khó thở chậm, khó thở kỳ thở ra xuất hiện nhanh, trong cơn hen lồng ngực bệnh nhân căng ra, các cơ hô hấp phụ nổi rõ, có thể có tím ở đầu tay chân sau đó lan ra mặt và toàn thân. Nhịp thở chậm, tiếng thở rít kéo dài. ứng xa có thể nghe tiếng rít hay sò sè của bệnh nhân. Nghe phổi có nhiều ran rít và ran ngáy. Cơn khó thở dài hay ngắn tuỳ theo từng bệnh nhân.
Sau vài phút hay vài giờ, cơn hen giảm dần, bệnh nhân ho khạc đờm rất khó khăn, đờm đặc quánh, có nhiều hạt nhỏ như hạt trai. Lúc này nghe phổi phát hiện được nhiều ran ẩm, một ít ran ngáy. Khạc đờm nhiều báo hiệu cơn hen đã hết.
Giữa các cơn, các triệu chứng trên không còn. Lúc này khám lâm sàng bình thường. Tuy nhiên nếu làm một số trắc nghiệm như gắng sức, dùng acetycholin, thì vẫn phát hiện được tình trạng tăng phản ứng phế quản.
Đo FEV1 (thể tích thở ra tối đa trong giây đầu) và FEV1/FVC (tỉ số Tiffeneau): trong cơn giảm dưới 80% so với lý thuyết.
Trong cơn hen, lồng ngực căng phồng, các khoảng gian sườn giãn rộng, cơ hoành hạ thấp, phổi tăng sáng, rốn phổi đậm.
Tiền sử cá nhân về dị ứng: như chàm, mày đay, có tiếp xúc với dị ứng nguyên trước đó, tiền sử gia đình về hen, dị ứng hoặc các yếu tố khác như gắng sức, lạnh...
Hội chứng hẹp tiểu phế quản do co thắt: khó thở chậm, chủ yếu kỳ thở ra, phổi nghe nhiều ran rít, ran ngáy, phim phổi cho thấy hình ảnh khí phế thũng.
Cơn khó thở có tính chất hồi qui, đáp ứng tốt với Thu*c giãn phế quản, test phục hồi phế quản với đồng vận beta 2 dương tính tức sau khi dùng đồng vận beta 2 thì FEV1 > 200 ml và FEV1/FVC > 15%.
Hen tim: bệnh nhân có tiền sử các bệnh van tim như hẹp van hai lá, hở van động mạch chủ, cao huyết áp, khó thở nhanh, cả 2 kỳ, phổi nghe nhiều ran ứ dịch, rất ít ran ngáy, phim phổi cho thấy hình ảnh ứ dịch, làm điện tim để xác minh thêm nguyên nhân.
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: bệnh nhân có tiền sử mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, thường do Thu*c lá, có hội chứng nhiễm trùng, khó thở nhanh, không có tiền sử cá nhân và gia đình về dị ứng hay hen, phổi nghe ran ẩm to hạt kèm ran rít và ran ngáy.
Có thể xuất phát từ hội chứng đe doạ hen phế quản cấp nặng, hội chứng này có thể tương ứng với tình trạng cơn hen cấp không đáp ứng với điều trị thông thường và nặng dần; hoặc xảy ra rất cấp đôi khi trong vòng vài phút. Đó là tình trạng nguy cấp có tiên lượng sinh tử trong thời gian ngắn. Chẩn đoán phải được thực hiện sớm.
Rối loạn tri giác: lo âu, vật vã hay ngược lại lơ mơ có thể đi dần vào hôn mê. Có thể thở chậm chứng tỏ suy kiệt cơ hô hấp và báo trước sự ngừng hô hấp.
PaO2 < 60 mmHg, PaCO2 > 45 mmHg.
pH máu < 7,38.
Mạch nghịch lý làm mạch giảm biên độ trong kỳ thở vào, có thể xác định bằng cách đo hiệu áp tâm thu giữa kỳ thở ra và kỳ thở vào, thường trên 20 mmHg.
Thường do Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenza, Staphylococcus aureus, Mycoplasma pneumonniae, Legionella pneumophila.
Thường có khó thở khi gắng sức, khi làm việc nặng, tím môi và đầu chi, lồng ngực biến dạng hình ức gà hay hình thùng, gõ vang, âm phế bào giảm.
Thể tích cặn và dung tích cặn chức năng tăng, có rối loạn thông khí phối hợp, PaO2 chỉ giảm ở giai đoạn sau và PaCO2 chỉ tăng ở giai đoạn sau.
Khó thở ngày càng tăng dần từ khó thở khi gắng sức, đến khó thở khi leo lên dốc hay lên cầu thang, đến khó thở khi đi nhanh trên đường phẳng, đến khó thở khi đi chậm trên đường phẳng, cuối cùng khó thở khi làm việc nhẹ như vệ sinh cá nhân, cởi áo quần, về sau khó thở khi nghỉ ngơi. Tím môi, đầu chi, mặt, nếu nặng tím toàn thân.
PaO2 giảm đến 70 mmHg, PaO2 tăng dến 50 - 80 mmHg, SaO2 < 75 %, pH máu có thể giảm < 7,2.
Cơn hen phế quản nhẹ và trung bình: dùng theophyllin 10-15mg/kg/ngày, có thể phối hợp với salbutamol 0,15-0,25mg/kg/ngày và prednison 5mg x 4 viên /ngày chia 2 lần (sáng 3 viên, chiều 1 viên).
Cơn hen phế quản nặng: tiêm tĩnh mạch chậm 1 ống diaphyllin 4,8%, có thể sau đó thêm 1 ống diaphyllin bỏ vào 500 ml glucose 5 %, truyền tĩnh mạch khoảng 20 giọt/phút, phối hợp với depersolon 30 mg tiêm tĩnh mạch chậm.
Hen phế quản nhẹ: khí dung kích thích beta 2 tác dụng ngắn khi cần thiết như salbutamol (Ventolin), chai 20 mg chứa 200 liều, liều lượng trung bình khoảng 100-200àg, có thể lập lại 1-2 lần sau vài phút.
Hen phế quản trung bình: khí dung kích thích beta 2 tác dụng ngắn khi cần phối hợp với khí dung corticosteroid như budenosid (Pulmicort, Inflammide) chai 20 mg chứa 200 liều, liều lượng trung bình khoảng 400-800àg/ngày chia 2-4 lần, hay beclometason dipropionat (Becotide) chai 5 mg chứa 100 liều và chai 20 mg chứa 80 liều, liều lượng trung bình 500-1000àg/ngày chia 2-4 lần, hay fluticason propionat (Flixotide), liều lượng trung bình 100-200àg /ngày chia 2-4 lần.
Hen phế quản nặng: khí dung kích thích beta 2 tác dụng ngắn 4 lần /ngày và khi cần phối hợp với khí dung corticosteroid tăng liều lên; có thể có hay không phối hợp với prednison, liều lượng trung bình 0,5-1 mg/kg/ngày chia 2 lần, buổi sáng nhiều hơn buổi chiều; có hay không phối hợp với khí dung ipratropium bromid (Atrovent) chai 4 mg chứa 200 liều, liều lượng trung bình 20-40àg, 3-4 lần /ngày.
Hen phế quản xảy ra ban đêm: khí dung kích thích beta 2 tác dụng ngắn, khi cần phối hợp với khí dung kích thích beta 2 tác dụng kéo dài như salmeterol (Serevent) 50-100àg phối hợp với khí dung corticosteroid; hiện nay GINA khuyến cáo nên dùng Seretide (phối hợp salmeterol fluticason propionat). Những Thu*c trên có hay không phối hợp với theophyllin tác dụng chậm.
Liệu pháp oxy: phải thực hiện liền không cần chờ kết quả khí máu, cung lượng cao 6l/phút nếu không có suy hô hấp mạn, nếu có suy hô hấp mạn cung lượng thấp 2l/phút.
Thu*c kích thích beta 2: tiêm dưới da terbutalin (Bricanyl) 1 ống 0,5 mg là biện pháp cấp cứu ban đầu ngay tại nhà bệnh nhân. Khi nhập viện thì dùng khí dung salbutamol, 1 ml chứa 5 mg hòa 4 ml dung dịch S*nh l* qua máy khí dung cho hít trong 10 - 15 phút, có thể lập lại tùy diễn tiến lâm sàng, 30 phút một lần. Có thể dùng salbutamol tiêm tĩnh mạch liên tục bằng ống tiêm tự động, liều lượng ban đầu thường là 0,1 - 0,2àg/kg/phút, tăng liều từng 1 mg /giờ theo diễn tiến lâm sàng.
Adrenalin: chỉ định khi các Thu*c kích thích beta 2 bị thất bại; liều lượng khởi đầu thường là 0,5 - 1 mg/giờ tiêm tĩnh mạch bằng ống tiêm tự động.
Aminophyllin: có thể kết hợp, dùng bằng đường truyền tĩnh mạch với dung dịch glucose 5% liên tục với liều lượng 0,5-0,6 mg/kg/giờ.
Thở máy: được chỉ định trong thể ngạt cấp hay trong thể mà điều trị bằng Thu*c bị thất bại gây suy kiệt cơ hô hấp.
Sự xuất hiện các cơn hen phế quản cấp cho thấy việc quản lý bệnh hen hiện nay chưa tốt. Cần quan tâm đến sự dự phòng bằng cách sử dụng hợp lý và đúng đắn các Thu*c kháng viêm và giãn phế quản. Những nghiên cứu gần đây cho thấy đến nay vẫn chưa đưa ra một mô hình dự phòng hiệu quả nhất vì chưa biết rõ độ lưu hành của sự tái phát, nên khoảng thời gian và sự cần thiết của sự điều trị kéo dài có tính phỏng đoán.
Nhiều tác giả đề nghị điều trị khởi đầu cơn hen với liều thường dùng khí dung corticosteroid nếu bệnh nhân chưa dùng Thu*c này; nếu bệnh nhân đã dùng, thì tăng liều gấp đôi. Nếu cơn hen xảy ra là do sự kiểm soát không tốt
thể hiện bằng các cơn hen về đêm hay ban ngày thì dùng prednisolon 0,2-0,6 mg/kg/ngày để ổn định chức năng phổi. Một liệu trình prednison trong 2 tuần có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát trong 2 ngày đầu sau khi được điều trị cấp cứu.
Hiện nay theo GINA khuyến cáo nên dùng Seretide trong điều trị duy trì kiểm soát cơn hen phế quản và người ta nhận thấy những bệnh nhân hen phế quản được điều trị bằng Seretide rất ít bị xảy ra cơn hen phế quản nặng.
Đặt bệnh nhân nằm buồng riêng, yên tĩnh, hạn chế tiếng động, sự gây ồn và những kích thích về cảm giác do khách thăm, nhân viên chăm sóc và các nhân viên y tế khác. Thiết lập mối quan hệ tin tưởng với người bệnh.
Tình trạng mất nước, da, niêm mạc, dấu hiệu khát nước, mất nước, thái độ của bệnh nhân, tỷ trọng nước tiểu, số lượng nước tiểu. Các chỉ số thể tích tuần hoàn: mạch, huyết áp động mạch, huyết áp tĩnh mạch trung ương. Các kết quả xét nghiệm: điện giải đồ, hematocrit.
Theo dõi: sự tăng thân nhiệt, sự thay đổi màu sắc của đờm, các kết quả xét nghiệm. Số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu, cấy đờm và máu, chụp phim phổi.
Kiểm soát chặt chẽ môi trường để giảm càng nhiều yếu tố gây dị ứng càng tốt. Đặc biệt trong phòng ngủ và trong nhà: không dùng đồ len dạ, lông, hạn chế bụi khói. Không nuôi những con vật ưa thích như; mèo, chim, chó cảnh, không trồng cây có phấn hoa, nấm mốc...
Tăng cường rèn luyện nâng cao sức khoẻ, duy trì dinh dưỡng, uống đủ nước, chế độ ngủ nghỉ ngơi, vận động hợp lý.