Ngay từ năm 460-377 trước Công nguyên, Hyppocrates - người được coi là ông tổ của nghề y, đã phát hiện ra tác dụng giảm đau hạ sốt của nước chiết xuất từ vỏ cây liễu (còn gọi là cây thùy dương).
Ngay từ năm 460-377 trước
Công nguyên, Hyppocrates - người được coi là ông tổ của nghề y, đã phát hiện ra
tác dụng giảm đau hạ sốt của nước chiết xuất từ vỏ cây liễu (còn gọi là cây
thùy dương). Nhưng mãi đến năm 1838, Raffaelle Piria (Italy) mới tinh chế được
acid acetylsalicylic từ vỏ cây này và 15 năm sau (1853) Charle Fredenic
Gerherdt nhà hóa học người Đức mới chế tạo được acid acetylsalicylic là Thuốc
kháng viêm hạ sốt giảm đau đầu tiên của nhân loại.
Năm 1899, sản phẩm aspirin
(acid acetylsalicylic) đầu tiên của hãng Bayer được lưu hành trên thị trường.
Cho tới nay đã hơn 100 năm ra đời, nhưng aspirin vẫn còn được trọng dụng với
nhiều tác dụng hứa hẹn như: phòng chống nhồi máu cơ tim, giảm tỷ lệ mắc ung thư
đại trực tràng... Sau aspirin là phenylbutason (1949) và indomethacin (1963)
được tổng hợp. Tiếp theo là sự ra đời của hàng loạt thế hệ Thuốc NSAID khác...
Tác dụng chung và cơ chế
Tác dụng hạ sốt: Tác dụng lên
trung tâm: thí nghiệm tiêm Thuốc thẳng vào trung khu điều hòa thân nhiệt (nhân
Caudatus) thì thấy tác dụng hạ sốt rõ rệt. Thuốc không gây hạ thân nhiệt ở
người bình thường. Thuốc làm tăng quá trình thải nhiệt như: giãn mạch da, tăng
tiết mồ hôi và không tác dụng trên quá trình sinh nhiệt. Thuốc tác dụng trực
tiếp lên cơ chế gây sốt: Khi vi khuẩn, nấm, độc tố... (gọi chung là chất gây
sốt - pyrogen ngoại lai) xâm nhập vào cơ thể sẽ kích thích bạch cầu sản xuất
các chất gây sốt nội tại. Chất này hoạt hóa men cylo-oxygenase (COX), làm tăng
tổng hợp PG (nhất là PG E1 và E2) từ acid arachidonic của vùng dưới đồi. PG sẽ
gây sốt do làm tăng quá trình tạo nhiệt (rung cơ, tăng hô hấp, tăng chuyển hóa)
và giảm quá trình thải nhiệt (co mạch da...). Thuốc hạ sốt do sức chế COX làm
giảm tổng hợp PG do đó làm giảm quá trình gây sốt nên có tác dụng hạ sốt. Thuốc
không tác động lên nguyên nhân gây sốt nên chỉ có tác dụng điều trị triệu
chứng.
Tác dụng chống viêm: Tác dụng
lên hầu hết các loại viêm không kể nguyên nhân. Chỉ ở liều cao mới có tác dụng
chống viêm. Thuốc có tác dụng lên thời kỳ đầu của quá trình viêm.
Tác dụng giảm đau: Thuốc tác
dụng lên các cơn đau nông nhẹ, khu trú hoặc lan tỏa như đau đầu, đau cơ, đau
răng, đau khớp. Đặc biệt có tác dụng tốt đối với đau do viêm. Không có tác dụng
lên các đau nội tạng như morphin. Thuốc không gây ngủ, không gây khoái cảm,
không gây nghiện.
Tác dụng chống ngưng kết tiểu
cầu và chống đông máu: aspirin ở liều thấp (0,3-1g) làm ức chế mạnh
cyclooxygennase của tiểu cầu, làm giảm tổng hợp thromboxan A2 (chất làm đông
vón tiểu cầu) nên có tác dụng chống kết tập tiểu cầu và chống đông máu. Liều
cao (>2g) lại ức chế cyclo-oxygenase của thành mạch làm giảm tổng hợp PG I2
(prostacyclin - là chất chống đông vón tiểu cầu) nên có tác dụng ngược lại làm
tăng kết tập tiểu cầu và tăng đông máu.
Tác dụng không mong muốn: Các
tác dụng phụ do ức chế tổng hợp PG aspirin gây: rối loạn dạ dày - ruột. Do ức
chế hình thành PGI2 ở thận làm giảm lưu lượng máu nuôi thận, giảm mức lọc cầu
thận, giải phóng các renin, ảnh hưởng tới việc di chuyển ion và trao đổi nước
gây nên các rối loạn chức năng tiểu cầu thận, viêm thận mô kẽ, hoại tử nhú
thận, suy thận cấp và tăng kali máu. Hội chứng xuất huyết, làm kéo dài thời
gian chảy máu, có thể gây ra hiện tượng xuất huyết dưới da do ức chế ngưng kết
tiểu cầu. Dễ gây quái thai ở 3 tháng đầu thai kỳ, ở 3 tháng cuối có thể làm
tăng thời gian mang thai vì ức chế PGE, PGF (là chất gây tăng co bóp tử cung),
đồng thời có thể ảnh hưởng chức phận của thai nhất là tuần hoàn và hô hấp.
Các tác dụng phụ không do ức
chế tổng hợp PG: có thể gây ù tai, điếc thoáng qua, say Thuốc. Ngoài ra, Thuốc
có thể gây dị ứng, gây cơn hen giả, rối loạn về máu theo kiểu nhiễm độc tế bào
(mất bạch cầu hạt), thậm chí có thể gây suy tủy.
Nguyên tắc chung khi sử dụng
Thuốc
Các Thuốc đều gây kích ứng
niêm mạc dạ dày gây loét, chảy máu (trừ paracetamol) nên khi
dùng Thuốc cần chú
ý: phải uống Thuốc lúc no, không
dùng Thuốc cho bệnh nhân loét hoặc có tiền sử
loét dạ dày hoành tá tràng. Trong trường hợp cần thiết phải dùng các chất bảo
vệ niêm mạc dạ dày. Song cần lưu ý rằng, những tai biến tiêu hóa không phải chỉ
do tác dụng kích thích trực tiếp của Thuốc lên niêm mạc mà còn do tác dụng toàn
thân của Thuốc.
Chỉ định thận trọng với bệnh
nhân viêm thận, suy gan, có cơ địa dị ứng, tăng huyết áp. Khi điều trị kéo dài,
cần kiểm tra có định kỳ (2 tuần 1 lần) công thức máu và chức năng gan thận. Nếu
dùng liều cao để tấn công chỉ dùng trong 5-7 ngày.
Chú ý khi phối hợp Thuốc:
không dùng phối hợp các Thuốc NSAID với nhau vì làm tăng độc tính của nhau.
Không dùng cùng với các chống đông, nhất là loại vitamin K (dicumarol,
warfarin), vì làm tăng tác dụng chống đông. Không dùng cùng các sulfamid hạ
đường huyết, diphenylhydantoin vì làm tăng độc tính. Khi cần phối hợp với các
Thuốc trên thì phải giảm liều các Thuốc đó. Các Thuốc NSAID có thể làm giảm tác
dụng một số Thuốc do làm tăng giáng hóa hoặc đối kháng nơi tác dụng như:
meprobamat, androgen, lợi niệu furosemid.
BS. Mai Trung Dũng