Động kinh thái dương bắt đầu ở thùy thái dương của não, nơi xử lý cảm xúc và rất quan trọng đối với trí nhớ tức thời. Một số triệu chứng của động kinh thùy thái dương có thể liên quan đến các chức năng này, bao gồm có cảm giác kỳ lạ - chẳng hạn như hưng phấn, thấy sự vật rất quen thuộc hoặc sợ hãi.
Động kinh thùy thái dương có thể xuất phát từ một khiếm khuyết giải phẫu hoặc sẹo ở thùy thái dương của bạn, nhưng nguyên nhân thường không biết được.Động kinh thùy thái dương được điều trị bằng Thuốc.Đối với một số người không đáp ứng với Thuốc, phẫu thuật có thể là một lựa chọn.
Một cảm giác bất thường (tiền triệu) có thể xảy ra trước một cơn động kinh thùy thái dương, giống như một cảnh báo.Không phải tất cả những người bị động kinh thùy thái dương đều có tiền triệu, và không phải ai có tiền triệu cũng nhớ chúng.
Tiền triệu thực sự là phần đầu tiên của một cơn động kinh cục bộ trước khi ý thức bị suy giảm. Ví dụ về tiền triệu bao gồm:
Bệnh nhân động kinh kháng Thuốc đã được phẫu thuật cắt bỏ xơ chai hồi hải mã phải
Đôi khi động kinh thùy thái dương làm giảm khả năng đáp ứng của bạn với người khác.Loại động kinh thùy thái dương này thường kéo dài khoảng 30 giây đến 2 phút. Các dấu hiệu và triệu chứng đặc trưng bao gồm:
Trong những trường hợp nặng, cơn động kinh thùy thái dương sẽ tiến triển thành một cơn co cứng co giật toàn thể - có co giật và mất ý thức.
Phim trước mổ
Đó là một nguyên nhân phổ biến của động kinh thùy thái dương kháng Thuốc. Xơ cứng hải mã đặc trưng bệnh do mất các tế bào thần kinh hình chóp, phân tán tế bào hạt và tế bào thần kinh đệm ở vùng hải mã. Nó có thể liên kết với những thay đổi các cấu trúc gần đó, được gọi là xơ cứng thái dương trong. Đây là một bất thường về cấu trúc mắc phải, và được biết là do hậu quả của các cơn động kinh, đặc biệt là co giật do sốt cao kéo dài. Nó có thể xảy ra cùng với các bất thường cấu trúc não khác, bao gồm dị tật phát triển vỏ não và dị dạng mạch máu.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh xơ cứng vùng hải mã là các cơn động kinh thái dương trong và có thể có những khiếm khuyết về nhận thức liên quan đến vùng hải mã bị ảnh hưởng (suy giảm trí nhớ lời nói trong xơ cứng hải mã bán cầu ưu thế, suy giảm trí nhớ thị giác trong xơ cứng hải mã bán cầu không ưu thế). Bệnh có thể do thay đổi cấu trúc não hoặc có yếu tố di truyền kèm theo, nếu có. Ví dụ, khoảng 25% bệnh nhân xơ cứng hải mã có thể có tiền sử sốt cao co giật, đặc biệt là sốt cao co giật kéo dài. Ở những người này, hội chứng sốt cao co giật tự giới hạn nhưng theo sau là một giai đoạn tiềm ẩn, và sau đó các cơn động kinh thùy thái dương trong xuất hiện.
Người bệnh động kinh kháng Thuốc sẽ được khảo sát về điện não đồ kéo dài và hình ảnh cộng hưởng từ sọ não để chẩn đoán xơ cứng hải mã.Nếu phù hợp lâm sàng, điện não và hình ảnh học, phù hợp cho phẫu thuật động kinh, người bệnh có thể phẫu thuật cắt bỏ phần hải mã bị tổn thương.
Động kinh có xơ hải mã có thể điều trị bằng Thuốc như các loại động kinh khác.Tuy nhiên, khi không đáp ứng với Thuốc thì phẫu thuật động kinh là một chọn lựa tốt cho xơ cứng hải mã.
Các nghiên cứu cho thấy từ 50 - 67% bệnh nhân đạt hiệu quả tốt không cơn động kinh trong vòng 5 năm. Bệnh nhân kiểm soát tốt cơn động kinh sẽ có chất lượng cuộc sống tốt hơn, và hơn 80% bệnh nhân ghi nhận có chất lượng cuộc sống tốt hơn trước mổ. Đối với trẻ em động kinh kháng trị, phẫu thuật mang lại sự cải thiện không những về chất lượng cuộc sống mà còn về sự phát triển.Đối với các nước phát triển, phẫu thuật động kinh còn là một phương pháp điều trị có hiệu quả kinh tế so với dùng Thuốc chống động kinh cho những bệnh nhân động kinh kháng Thuốc. Do đó, bệnh nhân có động kinh kháng Thuốc nên được đánh giá sớm cho phẫu thuật động kinh.
Động kinh kháng trị: Phẫu thuật một hướng điều trị mới