Trên đây là lời tiên tri còn được truyền tụng đến nay, của Tổ sư Padma Sambhava, người đầu tiên đã đem Phật giáo đến Tây Tạng vào thế kỷ VIII. Nay, chim sắt đã bay… ngựa đã chạy bằng bánh xe… và Phật giáo đã đến Hoa Kỳ, xứ sở của người da đỏ.
I. Sự truyền bá:
Ðối với nhiều người, phật giáo đã chính thức đến hoa kỳ vào ngày 8 tháng 9 năm 1893, khi ðại hội cộng đồng tôn giáo thế giới được khai mạc tại chicago, với sự tham dự của các đoàn đại biểu đến từ hơn 10 truyền thống tín ngưỡng thế giới. ngoài các truyền thống thiên chúa giáo và do thái giáo, các tôn giáo á châu như ấn ðộ giáo, hồi giáo và phật giáo cũng đều có mặt.
Khổng giáo và lão giáo cũng được trình bày bởi một vị từ sứ quán trung hoa. riêng phật giáo á châu, đại biểu phật giáo tiểu thừa từ tích lan, thái lan, phật giáo ðại thừa từ nhật bản và trung hoa đã tích cực đóng góp để đại hội đạt được “một thành quả cao cả và đáng vinh danh nhất của thế kỷ”. trước đại hội, phật giáo được chính thức ra mắt người dân hoa kỳ và ngược lại cũng đã được người dân hoa kỳ đón tiếp rất nồng nhiệt.
phật giáo đã lần lượt đến hoa kỳ hoằng hóa, thiết lập nhiều tu viện, chùa chiền, thuộc nhiều giáo phái khác nhau, chuyển hóa nhiều phật tử, đào tạo nhiều lãnh tụ phật giáo người hoa kỳ, hình thành một nền phật giáo của hoa kỳ với những tính chất rất đặc thù và viễn cảnh đầy triển vọng.
1. Đến từ Nhật Bản:
Thiền sư Soyen Shaku, trước khi từ Đại hội về Nhật, đã làm quen với một học giả kiêm nhà xuất bản sách tôn giáo là Tiến sĩ Paul Carus. Ông P.Carus muốn mời Thiền sư Soyen Shaku ở lại hợp tác phiên dịch một số thư tịch tôn giáo Á châu sang tiếng Anh, nhưng Thiền sư đã từ chối và chỉ định ông Daisetzu Teitaro Suzuki làm việc đó giúp ông Carus.
Ông D.T.Suzuki không phải là một người xa lạ đối với phật tử trên thế giới. Ông đã là tác giả khoảng 30 cuốn sách về Zen - thiền Nhật Bản, rất nổi tiếng và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong số những người cư sĩ có công trong việc truyền bá Phật pháp tại Hoa Kỳ, Tiến sĩ Suzuki phải là một trong những người đứng hàng đầu.
D.T.Suzuki, mặc dầu chỉ là một cư sĩ, nhưng đã là một thiền gia đầy đủ. Ông sinh năm 1870, dòng dõi võ sĩ đạo, gia đình theo Thiền Lâm Tế như các gia đình võ sĩ đạo khác. Ông lập gia đình với một người Mỹ năm 1911. Ông mất năm 1966.
Trong những năm 50, một số các nhà trí thức cấp tiến, chịu ảnh hưởng của Thiền Nhật Bản, của Suzuki, đã tiếp tục phổ thông hóa - đúng hơn đã Mỹ hóa - Phật pháp trong xã hội Hoa Kỳ.
Song thực ra, sự lan tràn của phật giáo và tầm mức quan trọng của nó trong xã hội hoa kỳ phần lớn nhờ ở sự truyền giáo của các bậc tu hành xuất gia đạo cao đức trọng từ nhật bản, trung hoa, thái lan và miến điện, và sau này từ tây tạng, ðại hàn và việt nam sang, thuộc đủ các tông phái.
Tông phái đến hoa kỳ sớm nhất có lẽ là phật giáo tịnh ðộ của người nhật, bởi vì người nhật bản là sắc dân đã đến mỹ sớm và đông đảo nhất. năm 1899, hai nhà truyền giáo thuộc tổ đình tây bản ðại tự ở kyoto, nhật bản, được cử sang vùng san francisco để giảng dạy phật pháp và trông nom phật sự cho cộng đồng người nhật. lúc đầu khách thập phương chỉ là dân nhật từ bản quốc sang. dần dà có thêm người gốc nhật sinh tại mỹ, và những người mỹ chính cống. ðến năm 1900, đã có một tăng đoàn gồm 20 người nhật và 25 người mỹ. ðến năm 1942, khi mỹ và nhật trở thành đối nghịch thì tất cả kiều dân nhật đã bị giam vào các trại tập trung. phật giáo tịnh ðộ nhật bản cũng bị vạ lây.
Nhật Liên Tông được truyền sang Mỹ quốc từ đầu thập niên 1930 trong cộng đồng di dân Nhật. Tôn giáo này có một tổ chức cư sĩ, có tên là Soka Gakkai (Sáng Giá Học Hội), rất hữu hiệu trong việc truyền bá Nhật Liên Tông tại Nhật cũng như tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ. Người sáng lập ra tổ chức cư sĩ này là ông Josei Toda. Chính ông đã tập hợp các cư sĩ thành Soka Gakkai USA (gọi tắt là SGI-USA). Người ta ước lượng biến thể của tổ chức này hiện nay có khoảng 400 ngàn hội viên trong đó 25% là dân Á đông, 40% là người da trắng, 19% là người da đen và 4% là Nam Mỹ.
Nếu tịnh ðộ tông nhật đã đến hoa kỳ sớm nhất thì thiền tông nhật bản - zen mới là tông phái phật giáo được truyền bá sâu rộng trong mọi giới hoa kỳ. thiền sư soyen shaku, sau khi tham dự ðại hội tôn giáo thế giới tại chicago, đã trở lại hoa kỳ, vùng san francisco, với một số đệ tử, để truyền bá zen.
Cho đến năm 1938, đã có hai Thiền đường Zen, ba chùa Tịnh Ðộ tông, và hai tu viện Nhật Liên tông do các tu sĩ Nhật Bản thành lập. Trong khoảng thời gian đệ Nhị Thế chiến, các kiều dân Nhật tại Mỹ, trong số đó có các thiền sư, đã bị ruồng bắt và giam trong những trại tập trung.
Sang đến những năm 1960, thiền nhật ngành tào ðộng phát triển tại vùng san francisco dưới sự hướng dẫn của thiền sư shunryu suzuki. ông đã lập nên 3 thiền đường, dạy thiền tại kim sơn tự, giảng pháp, công án và kinh luận bằng anh ngữ...
Ðến năm 1966, một đệ tử của S.Suzuki là Richard Baker tìm thấy một miếng đất trong vùng Los Padres. Trung tâm phải tự túc sinh kế và T.S.Suzuki đã áp dụng phương pháp “bất tác, bất thực” của tổ Bá Trượng ngày trước tại đây.
2. Đến từ Tây Tạng:
Năm 1950, chính trị tây tạng có thay đổi. năm 1959 ðức dalai lama - lãnh tụ tôn giáo cũng như chính trị của xứ này, cùng nhiều lãnh tụ khác, rời khỏi tây tạng. từ đó bốn tông phái chính của phật giáo tây tạng được truyền sang đến xứ của người da đỏ. bốn tông phái đó là: nyingma, kagyu, geluk và sakya.
Nyingma là tông phái cổ nhất, thành lập bởi ðại sư padma sambhava, người ấn ðộ, người đầu tiên mang phật giáo vào tây tạng vào thế kỷ viii. tông phái này phát triển mạnh ở âu châu. vị thiền sư quan trọng thuộc tông phái nyingma đến hoằng pháp tại hoa kỳ là ngài tarthang tulku. ông đã đến san francisco năm 1969 và thành lập tại đó trung tâm thiền học mật giáo đầu tiên tên là padma ling. sau đó ông mở một trung tâm huấn luyện kim cang thừa gọi là nyingma institute. nhờ ông mà kim cương thừa được mang đến hoa kỳ. sang đến năm 1970, một đại sư khác thuộc tông phái nyingma tên là sonam kazi đến mỹ. năm 1976, ngài dujom ripoché cũng sang hoa kỳ hoằng pháp và mở một trung tâm phật giáo tây tạng nyingma tại nữu ước.
Tông phái kagyu là tông phái lớn nhất ở tây tạng. choyam trumpa rinpoché là vị tu sĩ thuộc tông phái này có ảnh hưởng lớn tại hoa kỳ. sau khi ra khỏi tây tạng ít lâu, ông được học bổng sang học tại oxford - anh, về tôn giáo, triết học và cả nghệ thuật. năm 1968, khi ấy ông mới 29 tuổi, ông sáng lập trung tâm phật giáo tây tạng đầu tiên của châu âu tại scottland. nhưng sau đó ông đã sa ngã trước phong trào ăn chơi và có một cuộc đời trác táng, dính dáng đến rượu chè, nữ sắc, M* t*y, khiến trung tâm phải đóng cửa. ông lại bị một T*i n*n xe hơi trầm trọng làm ông bị tê liệt xuốt đời phải ngồi xe lăn. ông đã quyết định sang hoa kỳ năm 1970 làm lại cuộc đời và hành đạo 17 năm tại đây truyền bá phật giáo tây tạng ngành kagyu.
Nhiều trung tâm thiền mật tông được ông lập nên tại boulder, vermont, new york, boston, berkeley, los angeles và naropa institute ở rocky mountain. naropa institute nay đã trở thành một đại học nhân văn của hoa kỳ. năm 1974, vị tăng thống cao nhất tông phái kagyu là rangjung rigpe dorje, vị karmapa thứ 16 sang hoa kỳ và tiếp theo đó là ngài kalu rinpoché. những sự viếng thăm này đã giúp nhiều cho sự phát triển của tông phái kagyu tại hoa kỳ.
Ðức dalai lama là vị tăng thống tối cao cuả tông phái thứ ba geluk tây tạng, nhưng ngài cũng là quốc trưởng chính trị của xứ này. ngài sống tại ấn ðộ, thỉnh thoảng mới sang hoằng pháp tại hoa kỳ. ðại sư geshe wangyal cuả ngành geluk đã đến hoa kỳ để truyền bá phật giáo từ 1955, mở thiền đường lạt ma giáo tại new jersey và có nhiều học trò người mỹ theo học.
Tông phái sakya là tông phái phật giáo tây tạng nhỏ nhất. tông phái này cũng có mặt tại hoa kỳ với ðại sư deshung rinpoche. ngài sáng lập và điều khiển hai trung tâm phật giáo tại seattle và new york. ðức tăng thống tối cao của phái sakya là ngài sakya tridzin cũng sang hoa kỳ năm 1977 thăm các thiền viện đã được lập nên tại seattle, new york và berkeley.
3. Đến từ Trung Hoa:
Rất có thể là Sư Huệ Sơn cùng một số tăng sĩ Trung Hoa đã là những phật tử đầu tiên đặt chân vào nước Mỹ từ thế kỷ thứ IV, trước Columbus rất lâu. Nhưng những dấu chân đó, nếu thực sự có, nay không còn chút vết tích nào.
Người tu sĩ phật giáo trung hoa đem thiền trung hoa vào hoa kỳ để rồi trở nên một truyền thống phật giáo trung quốc lớn mạnh là hoà thượng tuyên hóa. ngài sinh năm 1908, đi tu khi còn nhỏ, sang hoa kỳ năm 1962 hoằng pháp tại khu hoa kiều vùng san francisco. năm 1970, hội phật giáo mỹ - hoa của ngài mua lại một xưởng làm đệm, sửa sang lại thành một ngôi chùa khang trang đặt tên là kim sơn tự. ðến năm 1976, hội cũng đã mua lại của chính phủ một nhà thương (cho tù nhân mất trí) ở mendocino và biến cơ sở 237 hec ta, với 280 phòng giam này thành một trung tâm phật giáo đồ sộ: vạn phật thành. tại đây, không phải chỉ có thiền tông của hoà thượng tuyên hoá, mà còn có tất cả các tông phái khác của phật giáo trung hoa, được giảng dạy như tịnh ðộ tông, thiên thai tông và hoa nghiêm tông v.v. ðây cũng là một trung tâm phiên dịch các kinh điển, tài liệu phật giáo sang nhiều thứ tiếng.
Dư luận hoa kỳ đã chú tâm đến phật giáo nói chung và vạn phật thành nói riêng từ năm 1974, khi hai tu sĩ từ chùa này đã thực hiện một cuộc hành hương “tam bộ nhất bái” (đi ba bước thì lại lễ nằm dài xuống đất một lễ) để cầu nguyện cho hòa bình thế giới. hai nhà sư trung hoa này đã mất 9 tháng trời để “tam bộ nhất bái” từ vạn phật thành ở san francisco, tiểu bang california đến seattle thuộc tiểu bang washington, đi qua tiểu bang oregon. hai vị này đã thực hiện lại một cuộc hành hương vô tiền khoáng hậu theo gương sư tổ của họ.
4. Đến từ Hàn Quốc:
Thiền sư phật giáo ðại hàn soen-sa-nim đã từng giảng pháp tại nhật bản và hồng kông sau đệ nhị thế chiến. ðến năm 1972, với một chút tiền, không một chữ tiếng anh nào, sư sang hoa kỳ, định đến los angeles, mà tại đấy đã có một cộng đồng ðại hàn khá đông đảo. nhưng trên phi cơ, sư gặp một người đồng hương dạy học tại providence, rhode island. ông này cũng là chủ một tiệm giặt ủi và đã rủ sư về đấy làm cho ông ta. sư về providence sinh sống , bắt đầu học anh ngữ, làm quen với một giáo sư ðại học providence môn phật học. sư vào đại học này giảng phật học bằng tiếng nhật, được vị giáo sư của trường dịch sang anh ngữ. từ đó phật giáo ðại hàn trưởng thành với hai trung tâm, một tại new york và một tại los angeles.
5. Đến từ Việt Nam:
Nói tới sự du nhập của phật giáo từ việt nam vào hoa kỳ cho người hoa kỳ thì phải nói tới hòa thượng thích thiện ân và hòa thượng thích nhất hạnh.
- hoà thượng thiện ân đã tới hoa kỳ từ năm 1966, làm giảng sư môn triết lý ðông phương tại ðại học ucla, sau khi đã tốt nghiệp tiến sĩ về văn chương ðông phương tại đại học wasada, nhật bản. ngài cũng giảng dạy phật học, thiền, tại một căn nhà nhỏ vùng hollywood. sau ngài sáng lập nên trung tâm thiền học international buddhist meditation center cho những người hoa kỳ muốn học thiền. ðến năm 1973, ngài thành lập đại học college of oriental studies (sau trở thành university of oriental studies) dạy phật học, với giảng sư là những thiền sư, những nhà phật học danh tiếng xuất thân từ những thiền viện nhật bản, thái lan, ðại hàn và tây tạng.
Sau năm 1975, một số người việt nam sang hoa kỳ thì hòa thượng đã lãnh đạo một phong trào phật tử hoa kỳ trợ giúp dân tỵ nạn trên nhiều phương diện về đạo cũng như về đời. giáo hội phật giáo việt nam tại hoa kỳ (vietnam buddhist churches in america) được thành lập với trụ sở là chùa việt nam tại los angeles. tháng 10 năm 1980, ngài viên tịch. trung tâm thiền học được giao cho học trò ngài là ni sư karuna dharma. cố hòa thượng thích mãn giác được cử đến thay người điều khiển giáo hội phật giáo việt nam tại hoa kỳ.
- hòa thượng nhất hạnh đã ra khỏi nước và đến hoa kỳ từ năm 1961, nhưng thầy chỉ thực sự mang phật giáo việt nam vào xã hội hoa kỳ từ năm 1983, khi thầy thành lập một dòng tu tiếp hiện, mà thầy đã sáng lập ra khi còn ở việt nam, tại berkely, california.
Cơ sở chính của thầy là làng hồng (sau đổi tên lại là làng mai) gần bordeaux, phía nam nước pháp. tuy nhiên, thầy hằng năm đều sang hoa kỳ, cùng nhiều nơi khác trên thế giới, hoằng pháp, tổ chức những khóa tu ngắn hạn hay trung hạn, mở những buổi diễn thuyết, tham dự những khóa hội thảo. ảnh hưởng lớn của thầy nhất hạnh vào xã hội hoa kỳ chính là số lượng lớn sách vở thầy đã trước tác, bằng anh ngữ, cũng như việt ngữ, giới thiệu phật giáo cho người hoa kỳ.
Năm 1997 thầy thành lập tu viện ðạo tràng thanh sơn tại hartland-four corners, vermont và tu viện rừng phong, tại south woodstock, vermont. hai cơ sở này nhằm vào, và được điều khiển bởi, các tu sĩ không có gốc á châu. ðến năm 2000, thầy thành lập thêm tu viện lộc uyển tại escondido, miền nam california. thầy đã nói: “phật giáo tại hoa kỳ phần đông sẽ là cư sĩ tại gia. gia đình sẽ là nơi tu tập cá nhân mà các trung tâm sẽ là nơi thăm viếng và tu tập cho gia đình. như vậy không có nghĩa là sẽ không có tăng sĩ. chúng ta phải xây dựng đạo phật (ở hoa kỳ) bằng dân địa phương”.
|