Hỏi đáp dịch vụ y tế hôm nay

Hỏi đáp dịch vụ y tế

Thuốc trị tăng huyết áp thường dùng và lưu ý khi sử dụng

Mục tiêu của điều trị bệnh tăng huyết áp là phải giảm huyết áp đến mức thích nghi và phòng ngừa biến chứng, Thuốc được dung nạp tốt, cách sử dụng phải đơn giản, không tăng các yếu tố nguy cơ khác, có tác dụng sửa chữa các bất thường kèm theo như biến đổi độ giãn động mạch và phì đại thất trái
tăng huyết áp là phải giảm huyết áp đến mức thích nghi và phòng ngừa biến chứng, Thuốc được dung nạp tốt, cách sử dụng phải đơn giản, không tăng các yếu tố nguy cơ khác, có tác dụng sửa chữa các bất thường kèm theo như biến đổi độ giãn động mạch và phì đại thất trái.

Dưới đây là một số nhóm Thuốc trị tăng huyết áp thường dùng hiện nay:

Nhóm lợi tiểu

Là nhóm Thuốc chữa tăng huyết áp lâu đời nhất. Hiệu quả đã được chứng minh qua nhiều công trình nghiên cứu dịch tễ học, nhất là giảm biến chứng ở mạch máu não. Tuy nhiên chưa có hiệu quả trong phòng ngừa biến chứng mạch vành.

Cơ chế tác dụng của Thuốc nhóm này là làm giảm lượng natri nội bào tại cơ trơn các tiểu động mạch dẫn đến giảm trương lực co mạch, từ đó giảm các lực cản ngoại biên. Có thể dùng đơn độc để điều trị hoặc hợp lực đáng kể (dù ở liều nhỏ) với nhóm Thuốc ức chế men chuyển trong điều trị tăng huyết áp. Nhóm Thuốc lợi tiểu rất cần thiết để phối hợp trong điều trị bệnh tăng huyết áp nặng cũng như bệnh nhân tăng huyết áp thừa thể tích máu lưu chuyển.

Nhóm Thuốc lợi tiểu ít hiệu nghiệm hơn các Thuốc hạ huyết áp khác trong tác dụng thu nhỏ phì đại thất trái, không có hiệu quả giãn động mạch. Người ta nhấn mạnh đến những rối loạn sinh học và nhất là chuyển hóa, như hạ kali máu với tiềm lực loạn nhịp thất có thể bất lợi cho người có vấn đề ở mạch vành. Thuốc lợi tiểu làm gia tăng nhẹ thể tích huyết cầu, acid uric máu, cholesterol và glucose máu. Điều này giải thích phần nào thất bại tương đối của nhóm Thuốc lợi tiểu trong phòng ngừa các bệnh tim thiếu máu cục bộ ở các công trình nghiên cứu trước đây.

Ban đầu nhóm Thuốc này được dùng trong điều trị suy mạch vành, sau đó được dùng rộng rãi trong điều trị tăng huyết áp.

Một số giả thuyết cho rằng, Thuốc tác động ở trung ương thần kinh, nhưng cũng có một số giả thuyết khác lại cho rằng Thuốc làm giảm lưu lượng tim; hiệu năng kháng tiết rênin (qua thụ thể bêta 1), nhờ đó có hiệu quả trong trường hợp rênin cao; giảm truyền sinap (tại khớp thần kinh).

Nhóm chẹn bêta có tác dụng giảm phì đại thất trái, yếu tố nguy cơ cá nhân của người bị tăng huyết áp cũng như rất hiệu nghiệm trên huyết áp trong gắng sức, nhưng ở vận động viên thể thao Thuốc có thể có khả năng gây suy nhược cơ và bị cấm dùng cho vận động viên trong thi đấu (doping).

Nhóm chẹn beta đặc biệt hiệu nghiệm ở bệnh nhân tăng huyết áp suy mạch vành (tùy trường hợp phối hợp với dihydropyridin như amlodipin, nifedipin), tăng huyết áp có đau nửa đầu, tăng huyết áp ở bệnh nhân trẻ tuổi. Không dùng nhóm chẹn beta cho người bị bất lực, tăng triglycerid, giảm HDL cholesterol.

Các thầy Thuốc ưa dùng nhóm Thuốc chẹn bêta chọn lọc hơn (atenolol, bisoprolol) vì tăng dung nạp Thuốc ở hệ hô hấp và hệ mạch, không ngăn cản đáp ứng giảm glucoza máu ở bệnh nhân đái tháo đường và có hiệu nghiệm tốt ở người tăng huyết áp nghiện Thuốc lá.

Cơ chế tác dụng của nhóm Thuốc này là chẹn các kênh canxi đi vào tế bào của cơ trơn các tiểu động mạch, từ đó giảm canxi nội bào gây giảm trương lực co mạch (giảm lực cản ngoại biên), giảm độ phản ứng với angiotensin, noradrenalin. Hiệu năng giãn mạch thấp hơn ở các động mạch cỡ trung bình.

Ưu điểm của nhóm Thuốc này là giảm phì đại thất trái, hiệu năng có lợi chức năng tâm trương thất trái, cải thiện độ giãn động mạch chủ và các động mạch lớn, giữ nguyên trạng lưu lượng máu ở não và thận. Thuốc được dùng trong điều trị tăng huyết áp ở người già và người có bệnh động mạch toàn thân, bệnh nhân có bệnh động mạch vành, bệnh nhân tăng huyết áp rênin thấp như tăng aldosteron máu nguyên phát. Cần thận trọng với các tác dụng ngoại ý của nhóm Thuốc này như phù chi dưới, nhức đầu, đỏ ửng, táo bón. Một số lớn Thuốc trong nhóm phải dùng 2 - 3 lần/ngày. Riêng phân nhóm dihydropyridin (amlodipin, nifedipin...) có ưu điểm là dùng một lần trong ngày.

Tác dụng chủ yếu là ức chế men chuyển angiotensin 1 (không có hoạt tính trên huyết áp) thành angiotensin 2 (co tiểu động mạch mạnh).

Tác dụng thứ yếu là sản xuất những chất giãn mạch khác như prostaglandin, yếu tố thư giãn nội mô.

Thuốc dùng đơn độc có hiệu quả lâm sàng bằng hoặc hơn chút ít các nhóm hạ huyết áp khác. Làm giảm phì đại thất trái, có hiệu nghiệm trên huyết áp khi gắng sức và vẫn giữ được dung nạp tốt, cải thiện độ giãn các động mạch lớn và không ảnh hưởng xấu trong chuyển hóa glucid và lipid.

Thuốc được dùng kết hợp với nhóm Thuốc lợi tiểu rất tốt trong điều trị. Chỉ định ưu tiên ở bệnh nhân tăng huyết áp với renin cao ở người trẻ, tăng huyết áp ở người chơi thể thao và nhất là tăng huyết áp với suy tim do hiệu quả giãn mạch, tăng huyết áp trong bệnh thận đái tháo đường và giảm protein niệu.

Tác dụng không mong muốn của Thuốc hay gặp nhất là ho (10%), triệu chứng này sẽ giảm bớt trong 48 giờ khi ngưng uống. Chống chỉ định ở bệnh nhân mang thai, bệnh nhân bị hẹp động mạch thận.

Bắt đầu dùng Thuốc với liều vừa phải và cần kiểm tra creatinin máu trong vài tuần đầu dùng Thuốc.

BS.

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-thuoc-tri-tang-huyet-ap-thuong-dung-va-luu-y-khi-su-dung-14288.html)

Tin cùng nội dung

  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Uxơ tuyến tiền liệt là bệnh thường gặp ở nam giới trung niên trở đi, càng cao tuổi tỷ lệ mắc càng cao. Nguyên nhân là do tuyến tiền liệt to dần lên, chèn ép dòng chảy, tùy mức độ nặng nhẹ của bệnh làm cho người bệnh đi tiểu khó, tiểu nhỏ giọt, bí tiểu, đi tiểu đêm nhiều lần làm người bệnh rất khổ sở.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
  • Chỉ cho trẻ uống kháng sinh khi bé thực sự bị nhiễm trùng do vi khuẩn.