Trẻ trước thường chơi đùa với bạn bè, nay đột nhiên chỉ thích một mình, trò chơi từng gây hứng thú, nay chẳng mấy ý nghĩa, vân vân, có thể là biểu hiện bệnh trầm cảm.
Một thời gian dài, người ta vẫn tin rằng, trầm cảm là chuyện riêng của người lớn, nhưng khoảng 2 thập kỷ trở lại đây, khoa học đã nhìn nhận nghiêm túc rằng, trẻ em, kể cả trẻ nhỏ, cũng có thể bị trầm cảm. Nhiều trẻ trầm cảm, bị cha mẹ kết tội nhút nhát, lười biếng, cứng đầu, không biết nghe lời. Không ít trường hợp, trẻ trầm cảm bị chẩn đoán nhầm thành rối loạn tăng động giảm chú ý, phản ứng tạm thời với stress, vân vân.
Báo cáo Sức khỏe vị thành niên Thế giới 2014 nêu rõ, trầm cảm là nguyên nhân phổ biến nhất, của bệnh tật và tàn tật ở độ tuổi vị thành niên, (10 đến 19 tuổi), quá nửa các rối loạn tâm thần, xuất hiện trước tuổi 14, nhưng thường bị bỏ sót.
Theo Viện hàm lâm Tâm thần Nhi khoa Mỹ, khoảng 2% trẻ nhỏ, và 4 đến 8% vị thành niên, mắc chứng trầm cảm, nghĩa là khoảng 6 đến 10% trẻ em nói chung, mắc chứng bệnh này. Trung bình, cứ 10 trẻ, thì có một bị trầm cảm khi lên 16 tuổi.
Trầm cảm ở trẻ em, bao gồm các rối loạn cảm xúc, như loạn khí sắc, trầm cảm điển hình, hoặc rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Đây là bệnh sức khỏe tâm thần trầm trọng, có thể ảnh hưởng tới những trẻ rất nhỏ tuổi.
Trầm cảm có nguy cơ tái phát rất cao, đợt sau nặng hơn đợt trước, và có thể dẫn tới toan tính Tu tu, Tu tu thành công. Trẻ em từng bị một đợt trầm cảm, có nguy cơ bị đợt tiếp theo, trong vòng 5 năm. Phát hiện sớm và can thiệp tốt, là điều hết sức quan trọng, ngay trong lần trầm cảm đầu tiên.
1. Một số yếu tố làm tăng nguy cơ
trầm cảm ở trẻ em.
- Gặp căng thẳng, trải qua mất mát.
- Rối loạn chú ý, rối loạn hành vi.
- Mắc bệnh mạn tính.
- Gặp khó khăn trong học tập.
- Nghiện Thu*c lá, rượu hay M* t*y.
- Gia đình có người bị trầm cảm.
2. Hậu quả của trầm cảm.
Trầm cảm có thể để lại hậu quả lâu dài, và nặng nề cho trẻ em, về mặt phát triển xã hội, phát triển cảm xúc và học tập. Nếu không được điều trị, một đợt trầm cảm có thể kéo dài 9 tháng, tương đương một năm học, vì vậy, rất khó để trẻ theo kịp các bạn. Trẻ trầm cảm cũng dễ nghiện rượu, Thu*c lá, M* t*y.
Một nghiên cứu của Mỹ, so sánh giữa nhóm người bắt đầu trầm cảm, ở độ tuổi trưởng thành, với nhóm người từng bị trầm cảm ở tuổi ấu thơ, cho thấy, nhóm thứ hai gặp nhiều thiệt hòi hơn:
- Thu nhập trung bình thấp hơn, tỷ lệ tốt nghiệp đại học thấp hơn, khó tìm việc làm hơn, quan hệ gia đình và xã hội ít thành công hơn.
- Bị các đợt trầm cảm nhiều gấp đôi, tiên lượng bệnh nặng nề hơn.
- Tỷ lệ toan tính Tu tu và Tu tu thành công, cao hơn hẳn, (34% người bị trầm cảm khi còn nhỏ, có toan tính tự vẫn, và 7% tự vẫn thành công, so với tỷ lệ 0% ở nhóm trầm cảm khi trưởng thành).
3. Biểu hiện
trầm cảm ở trẻ em.
Buồn rầu không nhất thiết đồng nghĩa với trầm cảm. Cũng là điều bình thường, nếu trẻ đau khổ khi bị mất mát, hoặc buồn bã vì bị bạn bè chơi xấu, chuyện này thường chỉ kéo dài vài ngày. Nếu tình trạng rầu rĩ kéo dài vài tuần, hoặc có vẻ ảnh hưởng tới các hoạt động thường kỳ, và quan hệ của trẻ, thì cần nghĩ tới trầm cảm.
Trầm cảm không phải là sự thay đổi nhất thời của cảm xúc, đó là cảm giác vô vọng kéo dài, là sự thiếu hụt năng lượng và nhiệt tình kéo trường diễn trong vài tuần, vài tháng, thậm chí là vài năm.
Một trong các biểu hiện quan trọng của trầm cảm, chính là sự bực bội mạn tính. Trẻ bị trầm cảm, có thể gặp khó khăn trong quan hệ với bạn bè và gia đình, hoặc bị thay đổi cảm xúc quá mức. Chúng thường tỏ ra lãnh đạm, không có khả năng tập trung, thiếu sức sống, thiếu nhiệt huyết và không mấy khi vui vẻ.
Đôi khi trẻ tỏ ra cáu bẳn, hờn dỗi, thậm chí là hung hăng. Khi đủ lớn, chúng thường tự gọi mình là đồ ngốc, là người vô dụng và vô phương cứu chữa, vân vân. Trẻ có thể bận rộn với các ý tưởng về ch*t chóc, và thậm chí còn tìm cách Tu tu. Trẻ vị thành niên bị trầm cảm, có thể lạm dụng rượu hay M* t*y, dùng những thứ này để cảm thấy dễ chịu hơn.
Biểu hiện trầm cảm khác nhau, tùy theo lứa tuổi:
Sơ sinh đến 3 tuổi:
- Kém ăn, chậm lớn không do nguyên nhân thể lực.
- Lãnh đạm, không thích chơi đùa, có những cơn cáu giận, ít thể hiện các cảm xúc tích cực nói chung.
3 đến 5 tuổi:
- Lóng ngóng, hay gặp T*i n*n.
- Ám ảnh sợ hay có những nỗi sợ hãi quá mức.
- Trậm trễ hoặc thoái lui trong các mốc phát triển, ví dụ trong kỹ năng ngồi bô.
- Xin lỗi quá mức vì những sai phạm nhỏ, như đánh đổ thức ăn, quên dọn đồ chơi, vân vân.
6 đến 8 tuổi:
- Có những than phiền rất mơ hồ về thể lực.
- Hành vi hung bạo.
- Bám chặt bố mẹ, tránh người lạ, ngại đối đầu với thách thức.
9 đến 12 tuổi:
- Nói về chuyện ch*t chóc.
- Lo ngại quá mức về việc học ở trường.
- Mất ngủ, tự buộc tội mình, vì đã khiến cha mẹ và thầy cô thất vọng.
Việc trẻ thể hiện một vài, hay thậm chí tất cả các biểu hiện nói trên, không có nghĩa là trẻ mắc chứng rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, khi có các biểu hiện này, đặc biệt là nếu ở mức độ nặng, hoặc kéo dài một tháng trở lên, cần đưa trẻ đi khám chuyên gia tâm thần nhi khoa. Chẩn đoán và điều trị sớm, có thể giúp rút ngắn các đợt trầm cảm, tránh xảy ra các đợt mới, và ngăn ngừa việc trẻ học kém, tự gây tổn thương hoặc Tu tu.
Các dấu hiệu thường gặp của
trầm cảm ở trẻ em:
- Buồn rầu, khóc lóc, tuyệt vọng trường diễn.
- Cô lập, thu mình khỏi các hoạt động từng được ưa chuộng.
- Khó chịu, bực bội hay giận giữ ngày càng gia tăng.
- Không nhiệt tình, năng nổ.
- Uể oải, mệt mỏi mạn tính.
- Quá nhạy cảm khi bị từ chối hay thất bại.
- Khó khăn trong xây dựng các mối quan hệ xã hội.
- Thường xuyên phàn nàn về sức khỏe, như đau đầu, đau dạ dày.
- Thường xuyên bỏ học hoặc học kém.
- Không quyết đoán, thiếu khả năng tập trung, hay quên.
- Tự ti, mặc cảm tội lỗi quá mức.
- Thay đổi lớn trong thói quen ăn uống, ngủ nghỉ, (ví dụ sụt cân mạnh, mất ngủ).
- Nói về chuyện bỏ nhà hay đã tìm cách bỏ nhà.
- Thường xuyên nghĩ về cái ch*t, hay có ý định Tu tu, tự hủy hoại cơ thể.
4. Chẩn đoán.
Rất may là trầm cảm, có thể được chẩn đoán và điều trị ở trẻ rất nhỏ. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và điều trị, đòi hỏi sự tham gia của các chuyên gia được đào tạo chuyên sâu:
- Trẻ nhỏ và tuổi mẫu giáo, thường chưa có khả năng, thể hiện tốt cảm xúc bằng ngôn ngữ. Vì vậy, các triệu chứng trầm cảm phải được suy ra, từ hành vi nhìn thấy được, thông tin thu được từ các cuộc trao đổi với phụ huynh, quan sát tương tác của trẻ với những người khác. Chỉ các bác sĩ tâm thần nhi khoa, và các chuyên gia tâm lý nhi khoa, mới đủ khả năng đánh giá đúng mức tình trạng bệnh.
- Với vị thành niên, cần tiến hành kiểm tra sức khỏe, để loại bỏ các nguyên nhân thực thể, dẫn tới hành vi nghi là trầm cảm. Khám thực thể thường bao gồm đánh giá thị lực và thính lực. Rối loạn thị lực, thính lực không được phát hiện, có thể khiến trẻ có vẻ trầm cảm, hay thậm chí khiến trẻ trầm cảm. Với trẻ lớn hơn, cần sàng lọc việc lạm dụng rượu và M* t*y, vì những tình trạng này, có thể cho các biểu hiện tương tự, hoặc làm khởi phát các đợt trầm cảm.
5. Điều trị.
Với trẻ trầm cảm mức độ vừa và nặng, tốt nhất là kết hợp liệu pháp tâm lý, (ví dụ: trị liệu nhận thức - hành vi), và Thu*c ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc, như Prozac hay Zoloft.
- Với các bệnh nhân nhẹ, thì nên bắt đầu bằng liệu pháp tâm lý, chỉ dùng Thu*c bổ sung, nếu liệu pháp này không đủ hiệu quả.
- Trong liệu pháp nhận thức - hành vi, trẻ vị thành niên được giải thích rằng, cách suy nghĩ của mỗi người có thể ảnh hưởng tới cảm xúc, và hành vi của người đó, rằng suy nghĩ tiêu cực, sẽ dẫn tới các triệu chứng trầm cảm, lo âu. Trẻ được học cách nhận biết các dấu hiệu báo trước, của suy nghĩ tiêu cực, và chuyển những suy nghĩ tiêu cực thành tích cực, nhờ đó trẻ cảm thấy dễ chịu hơn, và có ít dấu hiệu trầm cảm hơn.
Theo Bác sĩ: Trần Thu Thủy.