Mẹo vặt về sức khỏe hôm nay

Ứng phó với bệnh rối loạn lo âu lan tỏa thế nào?

Nhiều người hay bị lo lắng thái quá, thường hay cảm thấy mệt mỏi, mất ngủ, bồn chồn, run rẩy…
rối loạn lo âu lan tỏa rất phổ biến, tỷ lệ người bị bệnh trong 1 năm là 3-8%. Tỷ lệ nữ và nam bị rối loạn lo âu lan tỏa là khoảng 2-1. Tỷ lệ rối loạn lo âu lan tỏa trong suốt cuộc đời là 5-8%.

Các triệu chứng lo âu bao gồm hai nhóm triệu chứng: Lo lắng quá mức; Các triệu chứng cơ thể như tăng trương lực cơ, mất khả năng thư giãn, mệt mỏi…

Các biểu hiện của rối loạn lo âu lan tỏa

Các đặc tính cơ bản của rối loạn lo âu lan tỏa là lo lắng quá mức kèm theo căng cơ hoặc bồn chồn. Những lo lắng của bệnh nhân là quá mức và gây trở ngại cho các mặt khác của cuộc sống. Trương lực cơ tăng được biểu hiện như run rẩy, bồn chồn. Nhức đầu, mất khả năng thư giãn, khó tập trung chú ý, mất ngủ, dễ bị kích thích, mệt mỏi là các triệu chứng đặc trưng của rối loạn lo âu lan tỏa. Bệnh nhân bị rối loạn lo âu lan tỏa thường tìm đến một bác sĩ đa khoa hoặc nội khoa để được giúp đỡ cho một triệu chứng cơ thể. Ngoài ra, bệnh nhân thường tìm đến một chuyên gia cho một triệu chứng đặc biệt của mình (ví dụ, tiêu chảy mạn tính). Một bệnh thực tổn hiếm khi được tìm thấy. Bệnh nhân có phản ứng khác nhau sau khi được chẩn đoán là rối loạn lo âu lan tỏa. Một số bệnh nhân chấp nhận chẩn đoán rối loạn lo âu lan tỏa và hợp tác điều trị thích hợp; những người khác thì không chấp nhận chẩn đoán lo âu lan tỏa, họ tìm kiếm sự tư vấn y tế bổ sung khác.

Các triệu chứng của lo âu lan tỏa là rất rõ ràng, diễn ra hàng ngày, kéo dài ít nhất 6 tháng và thường có xu hướng phát triển mạn tính. Bệnh phải có ít nhất 6 triệu chứng cơ thể và không phải là thứ phát sau một bệnh thực tổn khác.

Tiến triển và tiên lượng của rối loạn lo âu lan tỏa

Bệnh nhân thường đến khám lần đầu ở độ tuổi 20. Chỉ có một phần ba số bệnh nhân đã đến khám và điều trị ở chuyên khoa tâm thần. Nhiều người đi đến bác sĩ đa khoa, nội khoa, tim mạch, hô hấp hoặc tiêu hóa, tìm cách chữa trị cho các triệu chứng cơ thể của rối loạn.

rối loạn lo âu lan tỏa tăng theo thời gian, thường phối hợp với các bệnh thực tổn. rối loạn lo âu lan tỏa là một rối loạn mạn tính, có thể kéo dài suốt đời. Sau 5 năm bị bệnh, chỉ có 18-35% số bệnh nhân lui bệnh hoàn toàn.

Bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa thường tự tìm kiếm Thu*c điều trị, vì vậy dễ dẫn đến phụ thuộc rượu, M* t*y và các Thu*c bình thần. Những bệnh nhân rối loạn lo âu khởi phát sớm trước 20 tuổi dễ có nhiều tổn thất do lo âu mang đến, họ thường không có yếu tố chấn thương tâm lý thúc đẩy bệnh phát triển, có tiền sử hay sợ hãi ở trẻ em, môi trường gia đình bị rối loạn, ít được sự giúp đỡ của xã hội.

Điều trị

Điều trị bằng Thu*c

Hoá dược đóng vai trò quan trọng trong điều trị lo âu lan tỏa trong những năm gần đây. Trong tương lai gần, hóa dược vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ yếu để điều trị bệnh này. Thu*c điều tri bao gồm Thu*c bình thần (diazepam, bromazepam, clonazepam), Thu*c chống trầm cảm (clomipramin, sertralin, paroxetin, venlafaxin, mirtazapin) hoặc các Thu*c an thần kinh thế hệ mới (quetiapin, olanzapin).

Mặc dù một số bệnh nhân chỉ cần điều trị bằng Thu*c trong thời gian từ 6 đến 12 tháng, nhưng với hầu hết bệnh nhân cần phải điều trị bằng Thu*c trong nhiều năm hoặc phải điều trị suốt đời. Khoảng 25% bệnh nhân tái phát trong tháng đầu tiên sau khi ngưng điều trị và 60 đến 80% tái phát trong 1 năm sau khi ngừng Thu*c. Mặc dù bệnh nhân phải điều trị lâu dài, nhưng hiếm khi họ trở nên phụ thuộc vào Thu*c benzodiazepin, buspirone, venlafaxine hoặc các Thu*c ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs).

Điều trị bằng liệu pháp tâm lý

Một số liệu pháp tâm lý có thể có hiệu quả trong điều trị rối loạn lo âu lan tỏa như liệu pháp nhận thức và hành vi. Các biện pháp này có thể làm giảm lo lắng về thảm họa, giảm lo âu, giảm các triệu chứng cơ thể của lo âu. Các biện pháp khác để kiểm soát hành vi lo âu như tập thư giãn, tập thở và liệu pháp động lực tâm lý cũng cho kết quả phần nào. Liệu pháp nhận thức đơn độc thì tốt hơn liệu pháp hành vi đơn độc, nhưng tốt nhất là kết hợp cả hai liệu pháp này. Khi đó hiệu quả điều trị sẽ cao hơn và số người bỏ điều trị cũng thấp hơn.

Đối với bệnh nhân và gia đình

Khuyến khích bệnh nhân tập thư giãn hàng ngày để giảm các triệu chứng cơ thể do lo âu, căng thẳng gây ra.

Khuyến khích bệnh nhân tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, tập thể thao và tham gia các hoạt động từng có ý nghĩa trợ giúp trong quá khứ.

Xác định và đối phó với nỗi lo buồn được khuếch đại có thể làm giảm được các triệu chứng lo âu:

- Xác định các mối lo âu bị khuếch đại hoặc có ý nghĩa bi quan (ví dụ con gái đi học về muộn 5 phút bệnh nhân đó lo sợ rằng cháu bị T*i n*n).

- Thảo luận cách đối đầu với mối lo sợ đó bị cường điệu khi chúng xuất hiện.

PGS.TS. Bùi Quang Huy

((Chủ nhiệm khoa Tâm thần, Bệnh viện quân y 103))

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (http://suckhoedoisong.vn/ung-pho-voi-benh-roi-loan-lo-au-lan-toa-the-nao-n137316.html)

Chủ đề liên quan:

lo âu rối loạn rối loạn lo âu

Tin cùng nội dung

  • Cháu không ăn được cơm nữa toàn ăn cháo, khi ăn thấy đầy chướng bụng, bị đưa hơi lên cổ rất khó chịu, nếu ợ hơi được thì đỡ hơn.
  • Theo Đông y, ngải cau có vị cay, tính ấm, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt.Cây ngải cau còn có tên là tiên mao, cồ nốc lan, sâm cau, tại một số địa phương vùng cao bà con gọi là soọng ca, thài léng,… thuộc họ tỏi voi lùn. Là loại cây thảo, sống lâu năm, cao 20 - 30cm hay hơn.
  • Rối loạn tăng động là bệnh lý thường gặp, chiếm tỉ lệ từ 3 - 6% ở trẻ em. Bệnh khởi phát sớm và thường gặp nhiều hơn ở các bé trai.
  • Bệnh teo đa hệ thống (multiple system atrophy - MSA) là một bệnh thoái hóa thần kinh, tăng tiến dần với các triệu chứng của parkinson, thất điều tiểu não, suy giảm chức năng thực vật, rối loạn chức năng niệu – Sinh d*c, và bệnh lý của bó vỏ gai.
  • Tim thường đập theo nhịp với chu kỳ không đổi. Rối loạn nhịp tim là sự thay đổi ở nhịp tim. Rối loạn nhịp có nghĩa là tim đập nhanh hoặc chậm quá mức. Rối loạn nhịp cũng có thể có nghĩa là tim đập không đúng chu kỳ (không đều) vì mất nhịp hay có thêm nhịp phụ.
  • Thỉnh thoảng chúng ta có thói quen kiểm tra tỉ mỉ mọi việc. Ví dụ, bạn có thể kiểm tra lại để đảm bảo mình đã tắt bếp điện hay bàn ủi trước khi ra khỏi nhà. Nhưng những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng bức (OCD) cảm thấy cần kiểm tra mọi việc lặp đi lặp lại, hoặc có những ý nghĩ hay thực hiện những quy trình và nghi thức lặp đi lặp lại.
  • Lo âu là một phản ứng bình thường để đối phó với căng thẳng và thực sự có thể có ích trong một số hoàn cảnh. Tuy nhiên, đối với một số người, sự lo lắng có thể trở thành quá mức. Mặc dù những người lo âu có thể nhận ra họ đang lo quá mức cần thiết, họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát lo âu, và điều đó có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sinh hoạt hàng ngày của họ
  • Rối loạn lưỡng cực, còn được biết đến với tên gọi rối loạn cảm xúc lưỡng cực hay bệnh lý hưng-trầm cảm, là một rối loạn của não bộ gây ra những biến đổi bất thường về cảm xúc, sinh lực, mức độ hoạt động và khả năng thực hiện những sinh hoạt thường nhật
  • Chế độ ăn BRAT bao gồm chuối, gạo, sốt táo và bánh mì nướng. Chế độ ăn BRAT giúp ích cho trường hợp rối loạn dạ dày, nôn mửa hoặc tiêu chảy. Áp dụng cho cả người lớn và trẻ nhỏ.
  • Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit/hyperactivity disorder: ADHD) là một rối loạn mạn tính ảnh hưởng đến hàng triệu trẻ và thường tồn tại đến tận tuổi trưởng thành. ADHD bao gồm một phức hợp các vấn đề chẳng hạn như khó khăn trong việc duy trì sự tập trung, tăng động (hiếu động thái quá) và có hành vi bốc đồng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY