Chẩn đoán và điều trị ký sinh đơn bào và giun sán hôm nay

Bệnh giun móc: chẩn đoán và điều trị

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Các biểu hiện sớm (thường không được phát hiện)

Viêm da: phát ban sẩn phỏng, đỏ và ngứầ tại chỗ ấu trùng xâm nhập.

Ấu trùng di trú trong phổi: các đợt ho, khó thở kiểu hen, sốt, đờm dây máu? tăng bạch cầu ái toan.

Các biểu hiện muộn

Các triệu chứng tiêu hóa: chán ăn, ỉa chảy, cảm giác khó chịu trong bụng.

Thiếu máu (thiếu sắt): mệt mỏi, da xanh, khó thở khi gắng sức, biến dạng móng tay, suy tim.

Các trứng đặc trưng và máu vi thể trong phân.

Nhận định chung

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên. Có lẽ một phần tư dân số thế giới bị nhiễm bệnh, và ở nhiều vùng, nhiễm giun móc là một nguyên nhân quan trọng gây suy nhược chung, chậm lớn và chậm phát triển, ở trẻ em, và dễ bị bệnh nhiễm trùng. Tỷ lệ mắc có thể lên tới 80% ở vùng nhiệt đới ẩm ướt với điều kiện vệ sinh kém.

Ở Bán cầu tây và vùng nhiệt đới Châu Phi, Necator là loài chiếm ưu thế và ở vùng Viễn Đông, Ấn Độ, Trung Quốc và Địa Trung Hải thì Ancylostoma chiếm ưu thế, nhưng hiện nay cả hai loài đều phân bố rộng rãi. Bệnh ít gặp ở những vùng có lượng mưa hàng năm dưới 1000 mm. Người là vật chủ duy nhát cho cả hai loại giun.

Giun trưởng thành dài khoảng 1cm. Trứng do giun cái đẻ theo phân ra ngoài phải rơi vào vùng đất ấm và ẩm để ấu trùng nở từ trứng có thể phát triển được. Ấu trùng duy trì khả năng lây nhiễm trong thời gian vài giờ tới gần một tuần, phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Sau khi xâm nhập qua da, ẫu trùng di trú theo máu tới các mạch phổi, chui vào phế nang, và sau đó được chuyển động của lông mao đưa lên trên tới phế quản, khí quản, và miệng. Sau khi được nuốt vào, ấu trùng đi xuống và bám vào niêm mạc của đoạn đầu ruột non; giun trưởng thành và bắt đầu đẻ trứng sau 6 - 8 tuần. Nhiễm Ancylostoma còn có thể xuất hiện do nuốt phải ấu trùng trong thức ăn hoặc nước uống. Giun Ancylostoma trưởng thành sống được khoảng 1 năm, Necator sống khoảng 3 - 5 năm.

Giun móc hút máu tại nơi chúng bám vào niêm mạc. Lượng máu mất đi tương quan với lượng giun nhiễm. Nhiễm giun nhẹ tưong ứng với 1000 trứng trong 1 gam phân (tương đương với 11 Ancylostoma và 32 Necator trưởng thành); nhiễm giun vừa tương ứng với 2000 - 8000 trứng trong 1 gam phân. Lượng sắt mất trong nhiễm giun vừa là 1,1 mg/ngày đối với N.americanus và 2,3 mg/ngày đối với A.duodenale, tương đương với nhu cầu cơ bản 0,72 của một người phụ nữ bình thường. Sau vài năm - phụ thuộc vào lượng sắt đưa vào cơ thể qua ăn uống của vật chủ - dự trữ sắt có thể suy kiệt và thiếu máu nặng có thể xảy ra trong nhiễm giun vừa với 30 Ancylostoma trở lên hoặc 100 Necator trở lên.

Triệu chứng và dấu hiệu

Ngứa, dấu hiệu đầu tiên của bệnh, xuất hiện sau khi ấu trùng gây bệnh xâm nhập qua da và biểu hiện bằng viêm da mẩn ngứa dạng dát sẩn hoặc nốt phỏng. Mức độ nặng của viêm da phụ thuộc vào số ấu trùng xâm nhập và sự nhạy cảm của vật chủ. Gãi ngứa có thể dẫn đến nhiễm trùng thứ phát. Nhiễm giun lươn và nhiễm ấu trùng di trú trong da là các bệnh cần được chẩn đoán phân biệt ở giai đoạn này.

Giai đoạn ấu trùng di trú qua phổi có thể biểú hiện bằng ho khan, khò khè, đờm lẫn máu, và sốt nhẹ. Âu trùng giun đũa di trú qua phổi và ấu trùng giun lươn có thể gây bệnh cảnh tương tự.

Sau 2 tuần hoặc lâu hơn, giun trưởng thành bám vào niêm mạc của tá tràng và phần trên hỗng tràng. Trong nhiễm giun móc nặng, giun có thể xuống đến hồi tràng. Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ và ăn uống đủ sắt thường không có biểu hiện bệnh. Tuy nhiên, trong bệnh nặng có thể có kém ăn, ỉa chảy, đau bụng mơ hồ, các triệu chứng thượng vị kiểu loét. Thiếu máu nặng có thể gây da xanh, biến dạng móng tay, thèm ăn đất, và suy tim. Mất protein nặng cũng có thể xuất hiện, dẫn đến hạ albumin máu, phù, và tràn dịch màng bụng. Hiện có các thông báo trái ngược nhau về tình trạng giảm hấp thu ở một số trường hợp nhiễm giun nặng.

Hiện tượng giảm số lượng giun và các triệu chứng bệnh sau 10 tuổi chứng tỏ đã xuất hiện một mức độ miễn dịch vừa phải.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Chẩn đoán dựa trên việc tìm thấy các trứng đặc trưng trong phân; phương pháp cô đặc có thể cần đến. Hai loài giun móc không thể phân biệt được với nhau dựa trên đặc điểm của trứng. Phân thường có máu vi thể. Thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ có thể nặng, với hemoglobin có thể xuống thấp tới 2g/dL, sắt huyết thanh thấp và khả năng liên kết sắt cao, và ferritin huyết thanh thấp. Tăng bạch cầu ái toan (có thể đạt 30 - 60% tổng số bạch cầu, lên tới 17000/µl) thường gặp trong giai đoạn giun,di trú qua phổi nhưng không đáng kể trong giai đoạn nhiễm giun đường ruột mạn.

Điều trị

Các biện pháp chung

Sự có mặt của các Thu*c tẩy giun an toàn khiến cho việc điều trị có thể thực hiện được đối với tất cả bệnh nhân ngay từ giai đoạn đầu, không phụ thuộc vào mức độ nhiễm giun; mặc dù vậy, điều trị nhiễm giun nhẹ có thể không cần thiết hoặc không mang lại ích lợi. Bệnh nhân có thể cần được điều trị lại sau 2 tuần cho đến khi số lượng giun giảm xuống mức thấp, xác định bằng phương pháp xét nghiệm trứng bán định lượng. Điều trị loại trừ giun hoàn toàn là không cần thiết do nhiễm giun nhẹ không ảnh hưởng đến bệnh nhân có dinh dưỡng tốt và lượng sắt mất được thay thế đầy đủ trong thức ăn.

Nếu bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu, cần cho uống sắt Sulfat và thức ăn giàu protein và vitamin trong thời gian ít nhất 3 tháng sau khi hết triệu chứng để bù dự trữ sắt. Liệu trình điều trị sắt Sulfat viên (200 mg) là một viên, ba lần một ngày, trong hai tháng, sau đó một viên một ngày trong 4 tháng. Sắt tiêm truyền ít khi được chỉ định.

Có thể cần đến truyền máu nếu thiếu máu nặng.

Điều trị đặc hiệu

Mebendazol, pyrantel và albenđazol có hiệu quả cao trong điều trị cả hai loài giun móc; mebendazol hoặc albenđazol có thể sử dụng để điều trị giun tóc đồng nhiễm và cả ba loại Thu*c đều được sử dụng để điều trị giun đũa đồng nhiễm. Các Thu*c được cho trước hoặc sau bữa ăn, không cần Thu*c nhuận tràng kèm theo. Đối với cả ba Thu*c, các tác dụng phụ nhẹ ở đường tiêu hóa đôi khi xảy ra; không sử dụng bất cứ Thu*c nào trong thời kỳ mang thai. Không nên dùng albenđazol và mebendazol cho trẻ dưới 1 tuổi.

Pyrantel pamoat

Trong nhiễm giun A. duodenal, pyrantel cho ở liều duy nhất 10 mg (gốc)/ kg (cao nhất 1g), có tỷ lệ chữa khỏi 76 - 98% số trường hợp và giảm đáng kể số lượng giun ở số bệnh nhân còn lại. Đối với nhiễm giun N. americanus, một liều điều trị duy nhất có thể chữa được tình trạng nhiễm giun nhẹ, nhưng đối với nhiễm giun vừa và nặng cần điều trị trong 3 ngày. Nếu loài giun móc gây bệnh không được xác định, điều trị như nhiễm giun necator. Đau đầu và buồn ngủ nhẹ, thoảng qua có thể xuất hiện.

Mebendazol

Khi cho mebenđazol ở liều 100 mg hai lần/ngày, trong 3 ngày, tỷ lệ khỏi cho cả hai loài giun móc dao động từ 35% đến 95%.

Albendazol

Uống một lần một liều 400 mg có tỷ lệ khỏi 85 - 95% ở những bệnh nhân nhiễm giun Ancylostoma và giảm đáng kể số lượng giun ở những bệnh nhân không khỏi. Do tỷ lệ chữa khỏi trong điều trị liều duy nhất đối với nhiễm giun Necator chỉ đạt 33 - 90%, cần tiếp tục điều trị trong 2 - 3 ngày, nhất là trong nhiễm giun nặng. Albendazol có ở Hoa Kỳ, mặc dù không được Cơ quan quản lý thực phẩm và Thu*c thông qua cho chỉ định tẩy giun móc.

Tiên lượng

Nếu được phát hiện trước khi các biến chứng nặng thứ phát xuất hiện, bệnh thường khỏi hoàn toàn sau khi điều trị.

Viêm ruột tăng bạch cầu ái toan

Ớ Australia, Ancylostoma caninum một loài giun móc của chó, đã được xác định là nguyên nhân gây đau bụng, ỉa chảy và tăng bạch cầu ái toan trong máu.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/chandoankysinhgiunsan/benh-giun-moc-chan-doan-va-dieu-tri/)

Tin cùng nội dung

  • Chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn bao gồm liệu pháp dinh dưỡng (xem phần Điều trị triệu chứng) và/hoặc điều trị bằng Thu*c
  • Mọi người đều cần có một chế độ ăn uống khoa học và thường xuyên tập thể dục để có sức khỏe tốt và ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh nhân ung thư có những nhu cầu sức khỏe đặc biệt, bởi vì họ phải đối mặt với những nguy cơ liên quan đến tác dụng phụ muộn cũng như sự tái phát của căn bệnh này
  • Nếu bạn hoặc một thành viên gia đình đã được chẩn đoán bệnh sa sút trí tuệ, điều quan trọng là bắt đầu lập kế hoạch cho tương lai. Hãy bàn bạc các vấn đề dưới đây với gia đình.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Chẩn đoán tiền sản là một số xét nghiệm giúp cho bác sĩ biết trước khi sinh thai của bạn có bị một số bệnh lý hay không (thường gặp là hội chứng Down). Chẩn đoán tiền sản gồm chọc ối và sinh thiết gai nhau giúp phát hiện ra những rối loạn di truyền trước sinh.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY