Trước khi nhập viện, chị T.T.P.V. (35 tuổi, ở TPHCM) bị té ngã do va chạm với xe đạp khi đang đi bộ, ngã đập phần trước ngực xuống đất, không chấn thương đầu và cơ quan khác, bệnh nhân không có mất ý thức, chỉ ê ẩm thành ngực sau té.
30 phút sau T*i n*n, bệnh nhân đột ngột đau ngực sau xương ức, đau cảm giác bóp chặt ngực, mức độ nặng, đau xảy ra khi bệnh nhân đang ngồi nghỉ, không có tư thế giảm đau, đau lan ra sau lưng, kèm khó thở, vã mồ hôi, hoảng hốt nên bệnh nhân nhập viện Bệnh viện Nhân Dân 115.
Trước nay chị V. không có tiền căn bệnh lý tim mạch, chỉ có đau khớp gối, sử dụng Thu*c tễ 2 tháng nay. Tiền sử sản khoa: sinh mổ, không tai biến sản khoa, con đầu tiên hiện 8 tuổi, hiện không dùng Thu*c ngừa thai. Gia đình chị V cũng không có ai mắc bệnh tim mạch sớm.
Khám tim mạch: mỏm tim ở liên sườn V giao đường trung đòn trái, tiếng tim đều, rõ, nhịp tim nhanh 120l/ph, không âm thổi, tĩnh mạch cổ không dãn, mạch ngoại vi sờ rõ.
Lồng ngực bệnh nhân cân đối, không ghi nhận vết thương hở, không ghi nhận tụ máu dưới da, rung thanh đều, ấn vào đau nhẹ ở gần mũi kiếm xương ức, không liên quan tính chất cơn đau sau xương ức.
Ngày thứ 1 | Ngày thứ 2 | Ngày thứ 3 | |
X-quang tim phổi thẳng | –Lồng ngực cân đối, thành ngực dày trung bình, không ghi nhận tụ dịch lớn trong thành ngực–Xương sườn hình dạng bình thường, không ghi nhận nứt gãy–Nhu mô phổi bình thường, không ghi nhận tổn thương phổi, không ghi nhận tràn dịch, tràn khí bất thường –Bóng tim không to | ||
Điện tâm đồ | –QS từ V1 đến V5.–ST chênh lên lan tỏa V1-V9, DI, AVL, ST chênh xuống DII, DIII, aVF.–Điện tâm đồ có động học ST: tăng độ chênh qua các lần đo (10h – 16h) | ||
Troponin I (hs) | –12h: 133 pg/ml–15h: 14559 pg/ml | –6h: 47573 pm/ml | – |
Siêu âm tim | –Các buồng tim không dày dãn–Chức năng tâm thu thất trái giảm:EF = 45 %–Giảm động toàn bộ vùng mỏm giảm động giữa vách liên thất–Các van tim bình thường–Không tràn dịch màng ngoài tim | –Các buồng tim không dày dãn, mỏng nhẹ vùng đáy vách liên thất–Chức năng tâm thu thất trái giảm EF = 35%–Xuất hiện thêm giảm động vùng đáy vách liên thất–Các van tim bình thường–Không tràn dịch màng ngoài tim |
Sau kết quả men tim và điện tâm đồ lần 2, chẩn đoán: Nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên vùng trước rộng (khả năng tổn thương ở mạch vành LAD 1) giờ thứ 12, killip I, nguy cơ cao sau chấn thương ngực kín.
Đây là một trường hợp bệnh nhân nữ trẻ (35 tuổi) không có tiền sử bệnh tim mạch trước đây, cũng như không có yếu tố nguy cơ tim mạch, vào viện trong bệnh cảnh nhồi máu cơ tim cấp vùng trước rộng sau chấn thương.
Tại thời điểm này, chúng tôi nghĩ đến khả năng Nhồi máu cơ tim cấp do cơ chế chấn thương mạch vành sau chấn thương ngực đụng giập, cũng không loại trừ khả năng bệnh nhân đã có bệnh lý mạch vành do xơ vữa trước đây.
Khả năng rách mạch vành ít được nghĩ đến ở bệnh nhân này do không ghi nhận dịch màng tim ở cả 2 lần siêu âm tim cách nhau khoảng 46 giờ.
Tại thời điểm này bệnh nhân còn đau ngực dữ dội, được xử lý theo phác đồ nhồi máu cơ tim cấp với kháng đông, kháng kết tập tiểu cầu, ức chế men chuyển, statin, nitrate và giảm đau.
Bệnh nhân được tiến hành can thiệp LAD1 không thành công, sau đó bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật bắc cầu mạch vành
Như đã bàn luận ở trên, bệnh nhân nữ trẻ không có tiền sử bệnh tim mạch cũng như yếu tố nguy cơ tim mạch, khởi phát nhồi máu cơ tim sau chấn thương đụng giập, được nghĩ đến do cơ chế tổn thương mạch vành sau chấn thương.
Tuy nhiên, kết quả chụp mạch vành có tổn thương nhiều mạch vành, mức độ nặng, đã có tuần hoàn bàng hệ nhiều, khả năng cao do bệnh lý xơ vữa mạch trước đó gây ra.
Vì vậy, đây là một ca lâm sàng hay, xảy ra trong bệnh cảnh hiếm gặp của nhồi máu cơ tim, có tổn thương mạch vành phức tạp, cần được chú ý và xử trí thích hợp để đem lại kết quả tốt cho bệnh nhân.
Lâm sàng bệnh nhân cải thiện sau phẫu thuật và được xuất viện sau 20 ngày điều trị tích cực tại bệnh viện.
Nhồi máu cơ tim là một bệnh cảnh cấp tính, tỷ lệ Tu vong cao, diễn tiến phức tạp. Bệnh xảy ra phần lớn ở các bệnh nhân lớn tuổi có nguy cơ tim mạch cao, nhiều bệnh lý nền tim mạch. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp xảy ra nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân trẻ, nguy cơ tim mạch rất thấp, đặc biệt ở những trường hợp khởi phát nhồi máu cơ tim sau sang chấn như trường hợp lâm sàng vừa nêu.
Vì vậy, đối với các trường hợp chấn thương ngực, đặc biệt là chấn thương ngực đụng giập [Blunt cardiac injuries (BCI)], triệu chứng đau ngực ở bệnh nhân cần được xem xét cẩn thận, thực hiện các phương pháp cận lâm sàng cần thiết để loại trừ nhồi máu cơ tim.
Cũng ở trường hợp bệnh nhân nêu trên, mặc dù bệnh nhân còn rất trẻ, yếu tố nguy cơ tim mạch trước đó không ghi nhận, kết quả khảo sát mạch vành vẫn có sang thương nặng, rộng, đa mạch máu, khả năng do bệnh lý xơ vữa cao. Vì vậy, việc khám sức khỏe định kỳ, thay đổi lối sống từ chế độ ăn uống, sinh hoạt đến luyện tập nên được đặt ra đối với mọi người, ở mọi lứa tuổi để có thể phòng tránh và điều trị kịp thời các bệnh lý tim mạch trong cộng đồng.
Chủ đề liên quan:
bệnh nhân bệnh nhân trẻ tuổi bị nhồi máu cơ tim chấn thương chấn thương ngực kín cơ tim cơ tim cấp nhồi máu nhồi máu cơ tim nhồi máu cơ tim cấp