Các triệu chứng của thường xuất hiện trong vòng 3-5 ngày sau khi tiếp xúc với nhiễm trùng. Thời gian này được gọi là giai đoạn ủ bệnh.
Loét miệng: Sau 1 hoặc 2 ngày, các nốt đỏ bắt đầu xuất hiện trong miệng, nhất là quanh lưỡi, lợi và mặt trong má.
Đầu tiên, những nốt này có kích thước bằng chiếc cúc áo nhỏ. Sau đó chúng nhanh chóng phát triển thành những vết loét lớn có màu vàng-xám, bao quanh là một vòng tròn đỏ. Thường sẽ có từ 5-10 vết trong miệng.
Nổi ban trên da: Rất nhanh sau khi các nốt loét trong miệng xuất hiện, sẽ thấy nổi những nốt nhỏ màu đỏ trên da của trẻ.
Những vị trí hay gặp những nốt này nhất là ở ngón tay, lòng bàn tay, lòng bàn chân và thỉnh thoảng gặp ở mông và háng.
Những nốt này thường không đau và không ngứa, mặc dù chúng có thể trở thành những mụn nước nhỏ, đôi khi gây đau và tức. Điều quan trọng là không được làm vỡ những nốt này, vì có thể khiến bệnh lây lan.
Bệnh gây ra bởi một số týp enterovirus khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc nhóm enterovirus A. Những týp hay gặp nhất là coxsackievirus A16, A6, A10 và enterovirus 71.
Sau đó vi rút có thể lan tới các hạch bạch huyết lân cận và qua máu đi khắp cơ thể. Hệ miễn dịch sẽ chống trả lại vi rút để ngăn nó lan tới những cơ quan trọng yếu, như não.
Thông thường bệnh lây lan do tay bị dính vi rút từ những đồ vật nhiễm bẩn, sau đó đưa tay lên gần miệng hoặc mũi. Bệnh cũng có thể lây do hít phải vi rút qua những giọt lơ lửng trong không khí.
Tuy nhiên, vi rút cũng có thể có mặt với số lượng lớn ở trong phân của người nhiễm, và có thể tồn tại ở đó trong tới 4 tuần sau khi các triệu chứng đã hết.
Nhiều vi rút có thể gây các nốt đỏ và loét trong miệng – chứ không chỉ riêng những vi rút gây miệng.
- Mô hình triệu chứng – các triệu chứng bắt đầu bằng sốt cao và đau họng; sau đó các vết loét phát triển trong miệng của trẻ, tiếp theo là các nốt phát ban ở bàn tay và bàn chân
- Biểu hiện của các nốt – những nốt này nhỏ hơn nốt thủy đậu và thường có màu sắc, kích thước và hình dạng khác biệt
Có thể khẳng định (hoặc loại trừ) bằng cách dùng tăm bông quệt vùng da, họng hoặc trực tràng của người bệnh và mang xét nghiệm. Đối với trẻ em có thể dùng mẫu phân.
Bệnh thường nhẹ và tự khỏi mà không cần điều trị. Biến chứng thường hiếm gặp, nhưng có thể gồm:
Mất nước: Những nốt loét trong họng và miệng có thể gây khó uống và khó nuốt, dẫn đến mất nước. Điều quan trọng là trẻ phải được uống đủ nước. Khuyến khích trẻ uống nước và sữa thay vì những loại đồ uống có tính a xít như nước trái cây.
Hãy liên hệ với bác sĩ nếu trẻ không thể hoặc không muốn uống bất kỳ loại đồ uống nào, hoặc nếu trẻ có những dấu hiệu mất nước, bao gồm::
Những trường hợp mất nước nhẹ có thể điều trị bằng dung dịch bù nước đường uống, có bán sẵn tại phần lớn các hiệu Thu*c. Những trường hợp nặng hơn có thể cần điều trị trong bệnh viện.
Hãy cho trẻ đi khám nếu nghi ngờ bị bội nhiễm ở da, vì trẻ có thể cần điều trị bằng kháng sinh bôi hoặc uống.
Trong một số hiếm trường hợp, có thể dẫn đến viêm màng não do vi rút. Viêm màng não vi rút ít nặng nề hơn viêm màng não vi khuẩn và không gây đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe.
Không có cách điều trị đặc hiệu cho viêm màng não vi rút ngoài việc dùng Thu*c giảm đau để giảm triệu chứng.
Biến chứng nặng nhất nhưng hiếm gặp nhất của là viêm não, có thể gây tổn thương não và đe dọa tính mạng.
Những dấu hiệu sớm của viêm não là những triệu chứng giống như cúm, có thể diễn ra trong vài giờ hoặc vài ngày. Các triệu chứng khác gồm:
Phần lớn các trường hợp viêm não có liên quan đến xảy ra trong những vụ dịch lớn do enterovirus 71.
Bệnh do vi rút gây ra, nghĩa là không thể điều trị bằng kháng sinh. Các Thu*c chống vi rút cũng không hiệu quả trong điều trị miệng.
- Khuyến khích trẻ nghỉ ngơi và uống nhiều nước (tốt nhất là nước thường hoặc sữa; tránh những đồ uống có tính a xít như cô ca hay nước cam)
Các Thu*c không cần đơn như paracetamol và ibuprofen, có thể giúp giảm đau họng và hạ sốt. Với phụ nữ có thai, paracetamol được ưa chuộng hơn ibuprofen. Không dùng aspirin cho trẻ dưới 16 tuổi.
Có nhiều loại gel, Thu*c xịt và nước súc miệng để điều trị loét miệng, mặc dù chưa rõ hiệu quả thực sự của chúng. Những Thu*c này bao gồm:
- Gel choline salicylate – chỉ phù hợp cho người lớn từ 16 tuổi trở lên và không nên dùng cho phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú
Một cách khác là súc miệng bằng nước muối ấm – pha nửa thìa cà phê muối (2,5g) với 1/4 lít nước. Điều quan trọng là không được nuốt, vì thế cách này không được khuyên dùng cho trẻ nhỏ.
Nếu trẻ có mụn nước, tránh làm vỡ mụn vì dịch bên trong làm bệnh lây lan. Các nốt mụn nước sẽ khô và hết trong vòng 7 ngày.
Phần lớn các trường hợp không cần vào viện vì triệu chứng sẽ hết trong vòng 7 ngày mà không cần điều trị.
Tuy nhiên, nếu không chắc trẻ có đúng là bị hay không, có thể đưa trẻ đi khám bác sĩ.
- Trẻ có những triệu chứng phụ, như thay đổi tình trạng tâm thần, co giật, thay đổi tính cách và hành vi
Bệnh rất dễ lây. Cách tốt nhất để tránh mắc bệnh và lây lan bệnh là tránh tiếp xúc gần với người bệnh và:
Trẻ có thể đi học trở lại ngay khi thấy khỏe hơn. Không cần bắt trẻ nghỉ học cho đến khi nốt mụn nước cuối cùng liền hằn, vì rồi tất cả nốt mụn nước sẽ liền.
Tuy nhiên, đây chỉ là lời khuyên. Từng trường và cơ sở nuôi dạy trẻ có thể từ chối không nhận trẻ cho đến khi bệnh khỏi hoàn toàn.
Những lời khuyên này cũng áp dụng cho người lớn bị muốn biết khi nào có thể đi làm trở lại.
AloBacsi.vn, Theo Dân trí