Nội khoa hôm nay

Đặt stent điều trị hẹp niệu đạo, niệu quản tái phát

Ngày 18/01/2018, các bác sĩ Khoa Ngoại Tiết niệu, Bệnh viện TWQĐ 108 đã tiến hành đặt stent để điều trị cho 2 bệnh nhân bị hẹp niệu đạo và hẹp niệu quản, bước đầu đã cho kết quả tốt.
Trường hợp đầu tiên là bệnh nhân N.A.H, 70 tuổi, mổ nội soi cắt tiền liệt tuyến tháng 11/2017. Sau mổ, bệnh nhân có biến chứng hẹp niệu đạo màng, tiến hành mổ xẻ niệu đạo tháng 12/2017 và nong niệu đạo định kỳ sau đó, nhưng bệnh nhân vẫn đái khó, tia tiểu nhỏ. Bệnh nhân đã được đặt stent niệu đạo BUS R80. Sau phẫu thuật, bệnh nhân tiểu dễ, tia tiểu to.

Trường hợp thứ 2 là bệnh nhân P.V.K, 44 tuổi, mổ nội soi tán sỏi niệu quản trái 2 lần năm 2016, 1 lần năm 2017. Tháng 6/2017, bệnh nhân được chẩn đoán xác định hẹp niệu quản và mổ tạo hình niệu quản, sau mổ niệu quản vẫn hẹp, bệnh nhân đau tức thắt lưng trái, thỉnh thoảng có đợt viêm bể thận trái và phải đặt lưu stent JJ thường xuyên. Ngày 18/01/2018, bệnh nhân đã được đặt stent URS-O-R-10-120, phẫu thuật thuận lợi, stent ở vị trí tốt. Sau 4 ngày, bệnh nhân hết đau, stent ở vị trí mong muốn.

Theo các bác sĩ, hẹp niệu đạo là tổn thương tương đối phổ biến và là một thách thức điều trị đối với các nhà ngoại khoa tiết niệu. Niệu đạo là một phần quan trọng của đường tiết niệu, đảm nhận nhiệm vụ chính là đưa nước tiểu ra ngoài cơ thể ở cả 2 giới. Riêng với nam giới, niệu đạo có vai trò quan trọng trong việc xuất tinh từ đường Sinh d*c. Ở nam giới, hẹp niệu đạo có thể xảy ra từ cổ bàng quang đến đầu D**ng v*t. Nguyên nhân của hẹp niệu đạo có thể do di chứng của chấn thương, viêm nhiễm, sau điều trị hoặc do bẩm sinh. Một số dấu hiệu nhận biết bệnh này là cảm giác tiểu khó, dòng chảy chậm, lượng nước tiểu giảm, có máu trong nước tiểu, đau bụng dưới, tiết dịch niệu đạo, nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Bệnh nhân không thể đi vệ sinh như bình thường mà phải được đặt một ống thông trên xương mu để đưa nước tiểu từ bàng quang ra ngoài. Để chẩn đoán bệnh, bác sĩ cần khám lâm sàng, chụp hình niệu đạo bằng Xquang hoặc siêu âm, soi niệu đạo.

Điều trị phổ biến hiện nay tại Việt Nam là nong niệu đạo, phẫu thuật xẻ niệu đạo và phẫu thuật tạo hình niệu đạo. Các phương pháp này đều có nhược điểm là tỉ lệ tái phát cao, tới 50-60% theo một số nghiên cứu. Để phòng ngừa căn bệnh này, các chuyên gia cho rằng điều quan trọng nhất là phòng tránh tổn thương niệu đạo và xương chậu. Nếu bệnh nhân tự thông tiểu thì nên dùng chất bôi trơn và sử dụng ống thông nhỏ nhất để tránh làm tổn thương niệu đạo. hẹp niệu đạo có thể biến chứng nếu bệnh nhân bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường T*nh d*c như lậu và chlamydia. Khi đó, việc điều trị bệnh kịp thời và đầy đủ với kháng sinh sẽ giúp ngăn ngừa biến chứng này.

Hẹp niệu quản ít gặp hơn hẹp niệu đạo nhưng điều trị triệt để cũng gặp nhiều khó khăn. Hẹp niệu quản là hậu quả của tổn thương lành tính (bẩm sinh, do sỏi, viêm nhiễm, sau điều trị) hoặc do tổn thương ác tính chèn ép từ bên trong hoặc từ bên ngoài vào. Các đặc điểm lâm sàng có thể khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân gây hẹp niệu quản. Một số dấu hiệu và triệu chứng thông thường bao gồm: Đau thắt lưng, cơn đau quặn thận; Rối loạn tiểu tiện: Tiểu máu, tiểu ít, tiểu đục; Sốt…

Điều trị hiện tại có thể phẫu thuật tạo hình hoặc đặt stent JJ niệu quản. Phẫu thuật chỉ định cho một số trường hợp và cũng có tỉ lệ biến chứng như hẹp tái phát, lưu thông niệu quản mới không tốt. Trong khi đó, đặt stent JJ có nhiều nhược điểm: Phải thay thế sau 3-6 tháng, gây đau khó chịu, nhiễm khuẩn, tạo sỏi...

Trên thế giới, đặt stent điều trị hẹp niệu đạo và hẹp niệu quản là phương pháp tiếp cận ít sang chấn, cho hiệu quả cao, bắt đầu được sử dụng từ những năm 90. Nhưng phát triển mạnh gần đây khi stent bao phủ hoàn toàn bằng silicon, tránh được một số nhược điểm như tạo sỏi hoặc niêm mạc phát triển vào lòng stent, được phát triển và đưa vào sử dụng từ năm 2009. Một số nghiên cứu bước đầu về loại stent này đưa ra kết quả điều trị trung dài hạn rất tốt.

Anh Tuấn

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (http://suckhoedoisong.vn/dat-stent-dieu-tri-hep-nieu-dao-nieu-quan-tai-phat-n141057.html)

Tin cùng nội dung

  • Ung thư và quá trình điều trị ung thư sẽ làm thay đổi khẩu vị. Nên chọn các thực phẩm giàu đạm và trình bày đẹp mắt để giúp cho khẩu vị ngon hơn
  • Phần lớn những tác dụng phụ liên quan đến việc ăn uống do điều trị ung thư sẽ biến mất sau khi kết thúc quá trình điều trị. Vài lời khuyên cho một chế độ ăn uống tốt sau trị liệu ung thư.
  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY