Theo thạc sĩ, bác sĩ lê thanh phong, phân khoa phẫu thuật lồng ngực – mạch máu, bệnh viện đh y dược tp hcm, ung thư vú là bệnh lý hàng đầu ở nữ giới. hằng năm trên thế giới có thêm trên một triệu phụ nữ mắc bệnh này. ở việt nam, theo thống kê, mỗi năm có 12.000 ca mới, tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng và trẻ hoá.
- một số nghiên cứu cho thấy nhóm phụ nữ có đời sống kinh tế xã hội cao thì nguy cơ cao gấp đôi so với phụ nữ có mức sống thấp.
- chủng tộc: theo thống kê, có một số chủng tộc đối mặt với nguy cơ cao hơn chủng tộc khác.
- đột biến gene: nếu bệnh nhân có đột biến gen brca1, brca2 sẽ có nguy cơ bị đến 70-80% trong cuộc đời.
- mang thai: số lần mang thai và tuổi lúc sinh con đầu tiên có thể ảnh hưởng tới nguy cơ vú. cho con bú làm giảm nguy cơ này.
- Mức nội tiết tố trong cơ thể: Sử dụng Thu*c nội tiết tố trong giai đoạn mãn kinh làm tăng khả năng bị ung thư vú.
- Tiền sử bệnh: Một người từng bị ung thư vú thì nguy cơ bị mắc lần thứ hai khoảng 1%/ năm ở những người chưa mãn kinh và 0,5% ở những người mãn kinh.
- Những yếu tố nguy cơ khác như: Hút Thu*c lá, tiếp xúc với tia X khi còn nhỏ làm tăng khả năng mắc bệnh.
- Trong giai đoạn muộn, vùng da của tuyến vú có thể thay đổi trở nên sần sùi như da cam, núm vú bị kéo lệch, sờ được hạch nách...
Điều trị cần phải phối hợp nhiều phương pháp để có một kết quả tốt nhất gồm phẫu thuật, hoá trị, chiếu tia, điều trị nội tiết tố, liệu pháp ngắm trúng đích.
Bệnh đặt người phụ nữ vào tình thế phải đương đầu với cả sự đau đớn về thể xác và thử thách to lớn về tinh thần trước việc mất một phần cơ thể cũng như sự gợi cảm. ngày nay, việc điều trị không chỉ giúp chị em lành bệnh mà còn phải giúp họ được giữ được vẻ đẹp và sự gợi cảm của tuyến vú.
Trước đây điều trị bằng phẫu thuật bao gồm cắt toàn bộ tuyến vú, cắt cơ ngực lớn và nạo toàn bộ các nhóm hạch nách. sau đó phẫu thuật đoạn nhũ có cải tiến là chừa lại không cắt cơ ngực lớn nhưng cũng cắt toàn bộ tuyến vú và nạo một phần hạch nách.
Kể từ thập niên 80, phương pháp điều trị phẫu thuật bảo tồn tuyến vú (cắt một phần tuyến vú chứa khối u hay cắt tuyến vú bán phần) kết hợp với xạ trị được áp dụng rộng rãi cho những trường hợp ung thư có kích thước nhỏ. Phương pháp này cho tỷ lệ sống tương đương với phẫu thuật cắt tuyến vú toàn bộ.
Kể từ thập niên 90, phương pháp sinh thiết hạch canh gác được thay thế nạo hạch thường quy, nghĩa là, đầu tiên bác sĩ chỉ lấy vài hạch nhỏ ở nách qua một đường rạch nhỏ để xét nghiệm. nếu có tế bào di căn thì sẽ nạo hạch, còn nếu không có tế bào di căn thì sẽ không nạo hạch. phương pháp này giúp làm giảm các biến chứng của nạo hạch và ít gây tàn phế.
Đối với những người giai đoạn trễ, những bệnh nhân có khối u nhỏ nhưng không muốn điều trị với tia xạ trị, những người có nguy cơ tái phát ung thư cao như đột biến gene thì phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú vẫn là phương pháp phù hợp nhất. tuy nhiên trong trường hợp này, bác sĩ có thể tạo hình lại tuyến vú cho bệnh nhân với hình dạng gần như bình thường.
Hiện nay có nhiều phương pháp tạo hình tuyến vú như sử dụng túi nước hay silicon, sử dụng mô tự thân, sử dụng tế bào mỡ tự thân... theo các chuyên gia, tạo hình tuyến vú bằng vạt cơ lưng rộng và kỹ thuật bơm tế bào mỡ chiết xuất là phương pháp phù hợp nhất đối với việt nam, có thể tái tạo một tuyến vú gần như bình thường.
Chủ đề liên quan:
bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ Độ tuổi phụ nữ ung thư vú ngày càng trẻ phụ nữ sức khỏe sinh sản nữ giới ung thư ung thư vú