Hòa thượng Thích Bửu Phước thế danh Nguyễn Văn Hương. Sinh vào giờ Thìn ngày mồng 9 tháng 9 năm Canh Thìn (12-10-1880) niên hiệu Tự Đức năm thứ 34, tại xã Bình Đông, tổng An Phú, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc xã Hội An Đông, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Ngài xuất thân trong gia đình truyền thống Phật giáo. Thân sinh là cụ Ông Nguyễn Văn Sử và hiền mẫu là cụ Bà Nguyễn Thị Phố.
Vốn sinh trong gia đình trung lưu trí thức, kính tin Tam Bảo, đây cũng là cụ duyên tốt cho đạo hạnh sau này của Ngài. Anh em trong nhà sáu người, bốn người anh em trai và hai người chị em gái. Ngài Là anh cả và đều đặt biệt là sáu anh em thì trong đó hết 3 người xuất gia:
Đoạn vòng sinh tử xuyên qua Niết bàn.
Thực vậy; ngay khi tuổi đời còn xuân mộng, Ngài sớm quyết tâm rửa sạch bụi trần vương, xả bỏ những đam mê thế tình vụng dại, trở gót gần nương nẻo Bồ đề, định hướng đời mình bằng chân giác đạo.
Năm Ất Dậu (1985) niên hiệu Hàm Nghi năm thứ 2, vừa tròn 6 tuổi, được song thân cho phép, Ngài đến Tổ đình Khải Phước Nguyên (Cây số 9, Quốc lộ 80, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Bây giờ Tổ Như Khả hiệu Chân Truyền đang tiếp Tăng độ chúng, khi Ngài đến đảnh lễ, Tổ hoan hỷ hứa khả đồng thời thu nạp làm đệ tử. Sau đó thế độ cho Ngài và ban pháp danh Hồng Thiện hiệu Bửu Phước.
Không bao lâu; khi hoàn thành tâm nguyện, Ngài trở về dìu dắt hai em trai của mình, cùng đến yết kiến Hòa thượng Bổn sư xin quy y thế phát xuất gia cùng nhau tu học. Và ban pháp danh cho người em trai thứ năm là Hồng Trí hiệu Bửu Quang, còn em trai út pháp danh Hồng Thạnh hiệu Bửu Tín.
Dù sống trong một ngôi chùa làng quê hẻo lánh, nhưng với trí thức sâu rộng, luôn đi trước thời đại của thầy Bổn sư đã toát ra là một trang xuất cách; bởi lẽ người thế tục gia cần phải có đủ đôi cánh trí thức và đạo đức mới có thể vươn tới một vùng trời sâu rộng. Do đó, sợ dừng chân một chỗ sẽ mai một ý chí xuất trần. Tổ Như Khả đã lén thầy Bổn sư của mình (Tổ sư Minh Thông hiệu Hải Huệ) dùng thuyền chèo đưa ba chú tiểu ở Bổn Tự Khải Phước Nguyên và rước luôn hai chú tiểu ở chùa Tổ (Bửu Lâm Cổ Tự) Rạch Cái Bèo, làng Phong Nẩm, Cao Lãnh (nay thuộc xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Sau đó giăng bườm chèo thẳng lên Tổ đình Long Thạnh, Gia Định (nay đường Bà Hom, thuộc huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh) để gởi 5 chú tiểu ở đây tu học.
Nơi đây Tổ Minh Hòa hiệu Hoan Hỷ là một danh Tăng kiêm ưu giới đức tiếp nhận năm huynh đệ là Bửu Chung, Trung Nghĩa, Bửu Quang, Bửu Tín và Ngài đều tỏ ra hết sức tinh cần và dốc lòng tu học, được Tổ thường xuyên khen ngợi.
Riêng Ngài đạo hạnh càng hiển lộ, không chỉ thông tuệ nội điển mà ngoại khoa như Tứ Thơ, Ngũ Kinh của Khổng, Trang, Lão, Mạnh đều mẫn cán, đến như Chiêm tinh, Thần số, Dịch lý toàn thư, Y phương diệu dược, Ngài đều nghiên cứu đến mức lão luyện. Có thể nói; những bậc danh sư đồng học đương thời đều tán thán.
Năm Kỷ Hợi ngày mồng 07 tháng 02 (18-03-1899), niên hiệu Thành Thái năm thứ 11, Ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Tổ đình Thiên Phước, Xã Tân Bình, Tổng An Phú, Huyện Long Xuyên, Tỉnh An Giang (nay thuộc xã Hội An Đông, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Đàn giới này Tổ sư Minh Thông hiệu Hải Huệ đương vi đường đầu Hòa thượng, Thiền sư Tôn An đương vi Yết Ma A Xà lê, Thiền sư Từ Chơn đương vi Giáo Thọ A Xà Lê, Thiền sư Như Khả hiệu Chân Truyền đương vi đệ nhất Tôn Chứng sư.
Năm 21 tuổi ngài được bổn sư bổ nhiệm về trụ trì tân phước tự, rạch dược, nay thuộc xã bình thạnh trung, huyện lấp vò, tỉnh đồng tháp.
Sau những tháng ngày thanh tâm trì niệm, tấn tu đạo nghiệp, một mặt củng cố đạo tràng phát dương quang đại, mặt khác kết hợp các pháp lữ gần xa hoằng truyền Phật pháp. Công hạnh của Ngài nức tiếng khắp nơi, nhiều thiện nhân đến quy y, công quả tu bồi phúc đức, trong đó không ít người được Ngài cảm hóa, phấn chí đầu Phật xuất gia.
Điểm đáng nói là đức hóa của Ngài lan tỏa rộng khắp, rất nhiều đàn việt phát tâm hỷ cúng phẩm vật, tịnh tài kể cả những điền sản lớn như ruộng đất, trong đó có phần của một vị quan ở Lái Thêu, Bình Dương hỷ cúng 10 heta ngang chùa, tả ngạn Cai Bường, có sự chứng minh của Hòa thượng Từ Văn, Tổ đình Hội Khánh, Thủ Dầu Một, Bình Dương... Chính ngôi Tổ đình Phước Ân, hữu ngạn Cai Bường, làng Vĩnh Thạnh, nay thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do đại Hương Cả Nguyễn Đăng Phụng phát tâm hỷ cúng đất mà Ngài chính là người Khai sơn vào năm Quý Mão (1903) vẫn tồn tại đến nay.
Nơi đây Ngài mở phòng Tuệ Tỉnh đường, xem mạch kê toa bốc Thu*c Từ thiện để kịp cứu giúp bà con khốn khó xa gần, và mở trường dạy chữ Hán Nôm, Đông y Nam dược, giảng dạy Giáo lý Phật đà, khắc bản gỗ ấn bản để khuyến khích lớp bình dân niệm Phật cầu vãng sinh, lập chương trình khuyến nông góp phần phát triển kinh tế dịa phương và chùa có nhiều ruộng đất giúp cho nông dân nghèo có đất canh tác, thu tô để tự túc kinh tế hương hỏa cho Tự viện.Với những công hạnh đức hóa ấy, đến hiện nay bá tánh thập phương vẫn còn tâm niệm mãi:
Thiền Tăng diệu dược đạo đời khắc ghi.
Năm Kỷ mùi (1919) niên hiệu Khải Định năm thứ 4, sau khi hoàn thành hiếu sự, lo tròn Tang lễ báo đức Tôn sư ở Tổ đình Khải Phước Nguyên tạm xong, Ngài bổ nhiệm đệ tử Thủ tọa Biển Trụ trì Tổ đình kế thế. Sau đó cũng vào năm này Đại giới đàn Minh Phước tại Tổ đình Phước Hưng, Ngài được Giáo thọ Vạn Hiển cung thỉnh về Sa Đéc, đương vi Tuyên Luật sư Yết ma A xà lê, Đàn giới này Ngài Từ Vân đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Vạn Hiển đương vi Giáo thọ A xà lê.
Năm Nhâm Tuất (1922) niên hiệu Đại giới đàn tại Sắc tứ Tam Bảo tự, Rạch Giá do Ngài làm Chánh Chủ kỳ, Thiền sư Như Nhãn hiệu Từ Phong chứng minh, Thiền Sư Chí Thiền đương vi Đàn đầu Hòa thượng, Luật sư Chánh Quả đương vi Giáo thọ A Xà lê.
Năm Ất Sửu (1925) niên hiệu Bảo Đại năm thứ nhất, Ngài bổ nhiệm vị đệ tử là Thượng toạ Nhật Đạt hiệu Thiền Lý về kế thế Trụ trì Tân Phước Tự, Rạch Dược, (nay thuộc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Bổ nhiệm đệ tử Thiền Phương trụ trì Phổ Quang Tự (nay thuộc Phường Bình Khánh, Thành phố Long Xuyên).
Năm Đinh Mão (1927) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 3, Đại giới đàn Minh Phước tổ chức tại Tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc, Ngài được cung thỉnh đương vi Yết Ma A xà lê.
Năm Canh Ngọ (1930) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 6, Đại giới đàn Nguyên Hòa tổ chức tại Tổ đình Tân Long, Cao Lãnh, Ngài được cung thỉnh đương vi Yết Ma A xà lê.
Vào khoảng thập niên 20 của những đầu thế kỷ 20, ngay khi lịch sử chấn hưng Phật giáo châu Á. Tại Việt Nam, người khởi xướng phong trào tiên phuông là Thiền sư Như Trí hiệu Khánh Hòa, Thiền sư Huệ Quang đang từng bước đột phá, kêu gọi Tăng, Ni và trí thức Phật tử trong cả nước hưởng ứng phong trào chấn hưng lại nền giáo dục đạo đức Phật giáo nước nhà.
Đáp lời kêu gọi đó, ngài cùng các đồng môn pháp lữ như đạt thới hiệu chánh thành, tổ đình vạn an, rạch cái xếp, nha mân. như kim hiệu bửu chung, tổ đình phước long, rạch ông yên, nha mân. luật sư chánh quả, tổ đình kim huê, sa đéc.thiền sư chí thiền, sắc tứ tam bảo, rạch giá... đều là những bậc danh tăng long tượng của miền tây nam bộ, đứng ra vận động khai mở các trường gia giáo đào tạo tăng tài và vô hình trung sa đéc là cái nôi của phật giáo vùng đồng bằng sông cửu long (mỗi lần họp mặt thảo kế hoạch giáo dục đào tạo & chương trình giảng dạy đều chọn phước ân tự là nơi kết họp nhân tài và phát động mỗi tự viện đều tự túc kinh tế), kể từ đó một lần nữa được tôn vinh sa đéc là đất phật, cũng chính nơi đây đã sản sinh ra những bậc danh tăng sau này như trí tịnh, huệ hưng... ni trưởng như hoa, ni trưởng chí kiên...
Qua những gương hạnh quý báu đó của đời Ngài chính là một bài pháp sống động đầy sức thuyết phục, không chỉ dừng lại cho chúng ta hôm nay, mà vẫn lưu mãi cho hàng hậu thế chung soi đến muôn đời.
Quán tường tận duyên Ta bà quả mãn, Ngài phó chúc môn đồ đệ tử Phật sự chu toàn và truyền đệ tử Nhật Kỉnh hiệu Thiền Chí Thượng Tọa kế thế Tông phong Trụ trì Tổ đình Phước Ân.
Bá tánh bổn đạo văn nghệ sĩ trí thức tôn kính truy tiến công đức Ngài có nhiều phương tiện thiện xảo để nhiếp phục ngoại đạo và hoằng pháp lợi sanh qua các bài thơ Phật, Nho, Lão, Y thuật, Thiên văn địa lý, Quẻ Dịch (Bốc phệ) .. . thể loại thất ngôn bát cú bằng Hán văn như sau:
Âm chất tương phò thả thính thiên.
Đương thời ngài còn sinh tiền thì bổn tự phước ân đã đáp ứng nhu cầu phật hóa nhân gian, đánh dấu một thời hưng thịnh vì thế nên trong ban chức sự chùa phải cử 3 vị thủ tọa, 3 vị thư ký, 3 vị tri khách để phục vụ . . .và người đời kính trọng thường tôn xưng ngài cai bường và có tài tiên tri hậu vận nên sắc tứ tam bảo, rạch giá lưu truyền:
Nhưng năm Đinh Hợi (1947), Tổ đình Khải Phước Nguyên bị hỏa thiêu nên các dịch phẩm, trước tác biên soạn và kho kinh sách của Ngài cũng đồng hy sinh vì Tổ quốc do tiêu thổ kháng chiến và Pháp khí bằng đồng thau thì hóa thân vũ khí để chống giặc thực dân Pháp. Tổ đình Phước Ân là nơi đào tạo nhiều thế hệ dấn thân vào đường cứu quốc, là nơi cung cấp quân lương cho chiến sĩ cách mạng.
(2). – bá tánh bổn đạo vì sự tôn kính ngài thích bửu phước khai sơn chùa phước ân, rạch cai bường, xã vĩnh thạnh, huyện lấp vò, tỉnh đồng tháp, nên thường lấy địa danh để tôn danh ngài là cai bường.
(3). – Hòa thượng Thích Trí Thiền đã bí mật hiến tài sản bất động sản của Sắc tứ Tam Bảo, Rạch Giá cho Xứ ủy Nam Kỳ hoạt động Cách mạng vào đầu thập niên 40 để làm Cơ sở chống thực dân Pháp, sao khi bị phát hiện, nhà cầm quyền Pháp đày Ngài ra Côn Đảo, và Ngài an trú trong Thiền định cho đến Viên tịch tại ngục thất Côn Đảo.