Sức khỏe hôm nay

Hạn chế hậu quả do giãn phế quản

Nhiều người cao tuổi (NCT) thường ho ra nhiều đờm loãng, đôi khi có lẫn máu, nhất là về buổi sáng những ngày lạnh trời, đi khám bệnh được biết mình bị giãn phế quản (GPQ).
Nhiều người cao tuổi (NCT) thường ho ra nhiều đờm loãng, đôi khi có lẫn máu, nhất là về buổi sáng những ngày lạnh trời, đi khám bệnh được biết mình bị phế quản">giãn phế quản (GPQ). Vậy GPQ là gì, bệnh có nghiêm trọng không? Nguyên nhân gây ra bệnh và cách phòng chống ra sao?

Tại sao GPQ hay gặp ở NCT?

GPQ là tình trạng các phế quản của phổi bị giãn ra rất khó hồi phục, đặc biệt là các phế quản trung bình. Bệnh gặp ở người trưởng thành, đặc biệt là NCT, thường nặng, tiến triển mạn tính trong nhiều năm. GPQ là một bệnh hay gặp ở những người đã từng mắc các bệnh về đường hô hấp và một số bệnh khác có liên quan. GPQ có 2 loại: mắc phải và bẩm sinh. GPQ mắc phải chiếm tỷ lệ rất cao (khoảng 90%), gặp ở hầu hết các trường hợp là do đã từng mắc bệnh đường hô hấp (viêm họng, mũi, thanh quản, phế quản, xoang hoặc viêm răng miệng). Nguyên nhân gây viêm đường hô hấp có nhiều nhưng chủ yếu vẫn là do virut; vi khuẩn (H. influenzae, S. pneumoniae, M. catarrhalis, S. pyogens, Staphylococcus, vi khuẩn lao) hoặc nấm (Candida albicans). Trong đó, đặc biệt là vi khuẩn lao (Mycobacterium). Khi bị viêm phế quản mạn tính hoặc bị lao phổi sẽ làm xơ, sẹo phế quản, tổ chức phổi gây biến dạng phế quản và gây nên chít hẹp lòng phế quản làm ứ đọng, tổn thương các tổ chức khác của phổi làm cho phế quản bị giãn ra, hậu quả sẽ xơ cứng, phế quản khó hoặc ít co lại như bình thường. Đồng thời, các chất ứ đọng càng nhiều thì càng kích thích gây ho làm tăng áp lực trong lòng phế quản làm GPQ. Một số nguyên nhân khác (tuy tỷ lệ gặp không nhiều) như polyp phế quản hoặc các hạch lao gây chèn ép phế quản lâu ngày làm hẹp phế quản, gây cản trở sự lưu thông không khí vào hệ thống đường hô hấp làm GPQ. Những người nghề nghiệp phải tiếp xúc hóa chất độc hại lâu ngày làm tổn thương niêm mạc đường hô hấp, đặc biệt người nghiện Thu*c lá, Thu*c lào, khói bụi làm niêm mạc các phế quản viêm nhiễm mạn tính cũng có thể gây GPQ.

Loại thứ hai là GPQ bẩm sinh gặp chủ yếu ở tuổi còn trẻ, chỉ chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 10%) và thường gặp phổi có hiện tượng “phổi đa nang” hoặc các dị tật bẩm sinh khác kèm theo.

Người bệnh có biểu hiện gì?

Ho là triệu chứng xuất hiện sớm nhất. Người bệnh ho dễ dàng, nhiều nhất vào buổi sáng khi ngủ dậy, ho dai dẳng quanh năm, nhất là vào những ngày trời lạnh. Khạc ra rất nhiều đờm, chủ yếu là buổi sáng, tính chất của đờm là bọt ở trên, đờm ở giữa, mủ và các mảnh tế bào ở dưới. Người bệnh thường ho ra máu nhiều hay ít lẫn với đờm, đỏ tươi, mỗi đợt kéo dài nhiều ngày và lặp đi lặp lại nhiều đợt như thế tùy theo thời tiết và tình hình bệnh. Kèm theo ho ra máu là khó thở, lúc đầu người bệnh chỉ bị khó thở khi làm việc gắng sức, sau khó thở thường xuyên. GPQ tiến triển thành từng đợt liên tiếp trong nhiều năm.

Bệnh GPQ có nguy hiểm không?

Bệnh GPQ nếu không được điều trị tích cực và không được phòng bệnh tốt có thể đưa đến một số hậu quả xấu cho người bệnh. Có những trường hợp ổ GPQ chỉ tồn tại một thời gian do được phát hiện và điều trị sớm nên bệnh có thể khỏi. Nhưng nếu không phát hiện sớm và chủ quan không đi khám hoặc điều trị không đúng phác đồ thì ổ GPQ có thể lan rộng ra sau nhiều đợt gây bội nhiễm tái phát. Nếu ổ GPQ bị lan rộng và kéo dài thì có thể gây nên tình trạng áp-xe phổi, mủ màng phổi, mủ phế quản, nhiễm mủ phổi, xơ phổi, khí phế thũng, gây suy hô hấp trầm trọng. Ngoài ra, GPQ có thể làm ảnh hưởng đến chức năng của tim và nguy hiểm hơn là gây nên suy tim. Vì vậy, để tránh biến chứng, khi có dấu hiệu bất thường, người bệnh cần đi khám càng sớm càng tốt và dùng Thu*c theo đơn của bác sĩ.

Phòng ngừa bệnh GPQ

GPQ hoàn toàn có thể phòng được. Cần vệ sinh đường hô hấp trên (họng, hầu, răng, miệng...) hàng ngày như đánh răng, súc họng bằng nước muối S*nh l*. Không nên để viêm amidan, viêm họng hạt, viêm chân răng, viêm lợi, viêm mũi, xoang. Hầu hết các trường hợp GPQ là thứ phát sau các bệnh nhiễm khuẩn ở phế quản – phổi như hen phế quản, viêm phế quản mạn tính, lao phổi... Vì vậy, muốn đề phòng GPQ, trước hết phải phòng và chữa sớm, chữa triệt để những bệnh trên để tránh hậu quả GPQ. Đối với trẻ sơ sinh và những người chưa có miễn dịch chống vi khuẩn lao, cần được tiêm phòng vaccin phòng lao theo hướng dẫn của cán bộ y tế. Cần có chế độ dinh dưỡng tốt để nâng cao thể trạng. Lao động, sinh hoạt điều độ, giữ cơ thể không bị thời tiết thay đổi tác động đột ngột, nhất là trong những tháng đông – xuân thời tiết giá lạnh. Tập thể dục đều đặn, đặc biệt là tập thở, nếu có điều kiện, nên sống ở nơi có không khí trong lành, khí hậu ấm và khô. Cũng không nên hút Thu*c lá, Thu*c lào vì chúng là nguyên nhân thuận lợi dẫn đến GPQ. Đây là các việc làm đơn giản nhưng cần kiên trì, quyết tâm cao.

ThS.BS. Mai Hương

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-han-che-hau-qua-do-gian-phe-quan-5404.html)
Từ khóa: giãn phế quản

Chủ đề liên quan:

giãn phế quản hậu quả phế quản

Tin cùng nội dung

  • Viêm phế quản là bệnh thường gặp trong mùa đông và thời tiết thay đổi. Khi phế quản bị viêm, niêm mạc của các phế quản bị kích thích sẽ phồng và dầy lên và làm hẹp hoặc tắc nghẽn các tiểu phế quản, gây ra ho và có thể kèm theo đờm đặc. Bạn đọc có thể tham khảo một số bài Thuốc, món ăn, trà Thuốc dùng khi mắc bệnh viêm phế quản như sau:
  • Hen phế quản (bệnh hen hay hen suyễn) là tình trạng đường dẫn khí bị hẹp và phù nề cũng như tăng tiết đàm nhầy. Điều này làm việc thở khó khăn và dễ gây ho, khò khè và thở hụt hơi.
  • Viêm phế quản mạn tính, (viêm phế quản mạn), là tình trạng viêm, (hoặc dễ bị kích thích), của đường thở trong phổi.
  • Viêm phế quản cấp là tình trạng nhiễm trùng cây phế quản, hệ thống ống mang khí đến hai lá phổi.
  • Nội soi phế quản (Bronchoscopy) là một thủ thuật giúp chẩn đoán và điều trị một số bệnh lý đường hô hấp bao gồm phế quản và phổi.
  • Viêm thanh khí phế quản là một tình trạng nhiễm trùng làm phần bên trong cổ họng trẻ sưng phồng, gây khó thở cho trẻ. Cần đưa trẻ đi bác sĩ nếu có triệu chứng viêm thanh khí phế quản.
  • Viêm thanh khí phế quản là một bệnh thông thường gây ảnh hưởng đến đường dẫn khí làm cho trẻ khó thở. Thường biến ở trẻ biết đi và tuổi từ 6 đến 12 tháng tuổi
  • Viêm thanh khí phế quản là một tình trạng nhiễm trùng làm phần bên trong cổ họng trẻ sưng phồng, gây khó thở cho trẻ. Cần đưa trẻ đến bệnh viện khi có triệu chứng viêm thanh khí phế quản.
  • Viêm tiểu phế quản là một bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp phổ biến ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Viêm tiểu phế quản gây tắc nghẽn các đường dẫn khí nhỏ ở phổi
  • Viêm tiểu phế quản là bệnh về đường hô hấp rất phổ biến ở trẻ nhỏ. Một trong các triệu chứng của bệnh viêm tiểu phế quản là tình trạng khó thở.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY