Dinh dưỡng là một nhu cầu cơ bản của mỗi người, nhưng đối vối người bệnh do ảnh hưởng của bệnh tật nên thường cảm thấy ăn không ngon miệng nhất là những người bệnh trong giai đoạn ủ bệnh và toàn phát bệnh, không những vậy một số bệnh lý còn đòi hỏi sự tiết chế trong chế độ ăn, ví dụ như bệnh thận thì không được ăn mặn hay bệnh đái tháo đường thì lại hạn chế đường tối đa trong thức ăn v.v... Do dó, với những yếu tố trên càng làm cho người bệnh cảm thấy ăn không ngon miệng hơn, và chúng ta cũng đã biết vai trò của dinh dưỡng cũng quan trọng như Thu*c dùng trong việc điếu trị, giúp người bệnh mau chóng bình phục. Do vậy, vai trò của người điều dưỡng rất quan trọng trong việc hỗ trợ cho người bệnh ăn.
Trong cơ thể con người có hai quá trình trái ngược nhau, luôn luôn gắn bó và kết hợp chặt chẽ với nhau đó là quá trình đồng hoá và quá trình dị hóa. Quá trình đồng hoá bao gồm các phản ứng chuyển các phân tử hữu cơ có trong thức ãn như protid, lipid và glucid thuộc các nguồn gốc khác nhau từ động vật hay thực vật thành chất hữu cơ đặc hiệu của cơ thể để tham gia vào sự tạo hình, tăng trưởng và dự trữ cho cơ thể. Muốn thực hiện phản ứng này cần phải có năng lượng. Quá trình dị hoá là quá trình bao gồm các phản ứng thoái hoá của các chất hữu cơ thành những sản phẩm trung gian, thải những chất cặn bã (CCL, H X), urê v.v...) mà cơ thề không cần nữa ra ngoài, các phản ứng này tạo ra năng lượng dưới dạng nhiệt, năng lượng này dùng cho các phản ứng tổng hợp và các phàn ứng khác của cơ thể như co cơ, hấp thu, bài tiết v.v... ở trẻ nhỏ quá trình đồng hoá mạnh hơn quá trình dị hoá, ở tuổi trưởng thành nếu ăn uống quá mức thì làm cho trọng lượng cơ thể tăng lên, chất dư thừa được dự trữ trong cơ thể dưới dạng mỡ. Còn ở người bệnh thì quá trình dị hoá tăng do cần phải tiêu hao năng lượng do bệnh lý như sốt v.v..., do vậy nếu dinh dưỡng không đủ cơ thể sẽ sử dụng protid, glucid dự trữ để tạo ra năng lượng, người bệnh sẽ sụt cân và khả năng chống lại bệnh tật kém. Do đó sự dinh dưỡng rất cần thiết cho cơ thể đặc biệt là cho người bệnh.
Việc dinh dưỡng hợp lý là phải cung cấp đầy đủ cho cơ thể những thực phẩm cần thiêt cho sự sống, thực phẩm phải đáp ứng được ba yêu cầu: cung cấp đủ nguyên liệu tạo ra năng lượng cho quá trình dị hoá, cung cấp đủ nguyên liệu để xây dựng và bảo tồn mô, cung cấp những chất cần thiết để điếu hoà quá trình sinh hoá trong cơ thể.
Thực phẩm chúng ta ăn hằng ngày bao gồm: đường, tinh bột, đạm, chất béo, nước, vitamin, khoáng chất và chất xơ. Đường, tinh bột, đạm, mỡ là những chất sinh năng lượng hay còn gọi là chất hữu cơ. Vitamin, nươcs, muối khoáng là những chất không sinh năng lượng nhưng nó có nhiệm vụ đệm trong các phản ứng hoá học của cơ thể, tham gia vào cấu trúc của các mô, điều hoà thần kinh và thể dịch... và được gọi là chất vô cơ, còn chất xơ là chất không sinh năng lượng nhưng nó có nhiệm vụ làm tăng thể tích phân và giúp việc bài tiết chất bã qua đường tiêu hoá dễ dàng.
Nhu cầu về năng lượng hằng ngày bao gồm nhu cầu năng lượng cho chuyển hoá cơ bản và nhu cầu năng lượng cần thiết cho những hoạt động của cơ thể, nhu cầu năng lượng hằng ngày tuỳ thuộc vào từng người, từng giai đoạn phát triển, bệnh lý và tuỳ theo mức độ hoạt động của mỗi người.
Nhu cầu về chất bao gồm: đạm (protid), mỡ (lipid), đường, bột (glucid), nước, chất khoáng: Mg, Fe, Na, K, Ca v.v..., chất xơ.
Một chế độ ăn đầy đủ là nó cung cấp một sự cân bằng về tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết, do vậy khẩu phần ăn là lượng thực phẩm cần dùng cho một người trong một ngày để đảm bảo nhu cầu về năng lượng và chất cho cơ thể. Nhu cầu dư trong khẩu phần ăn không thể xác định một cách tuyệt đối mà nó tuỳ thuộc vào đối tượng, mức độ lao động, tình trạng bệnh lý v.v..., cần có tỷ lệ cân đôi giữa các chất đạm, đường, mỡ, vitamin, khoáng chất trong khẩu phần ăn
Ngày nay, để đánh giá tình trạng cân nặng của một người, người ta dựa vào chỉ số BMI là một tỷ lệ giữa chiều cao và cân nặng, nó phản ánh dược tổng lượng mỡ dư thừa trong cơ thể một cách chính xác, chỉ số BMI không phân biệt theo giới tính. Bình thường BMI phái nằm trong giới hạn: 18 < BMI < 23.
Ăn đa dạng nhiều loại thức ăn, thông thường một ngày trong một khẩu phần ăn trung bình có từ 20 - 30 loại thức ăn không kể các loại gia vị như nước mắm, hành, tỏi v.v...
Điều dưỡng nên ý thức rằng tình trạng dinh dưỡng kém của người bệnh có nhiều khả năng làm chậm sự hồi phục bệnh, do vậy người điều dưỡng có thể hưỏng dẫn người bệnh lúc họ nghỉ ngơi, hoặc khi cho người bệnh ăn v.v... để người bệnh hiếu rõ về vai trò quan trọng của việc dinh dưỡng đúng cách và hợp lý. Những hướng dẫn này có thể là:
Hướng dẫn trực tiếp cho thân nhân người bệnh lúc thích hợp, cũng có thể dùng bảng chỉ dẫn để hướng dẫn họ.
Khuyên người bệnh không nhất thiết phải thực hiện theo yêu cầu của bác sĩ nếu chế độ dinh dưỡng đó không phù hợp với tín ngưỡng hoặc là những thức ăn quá đắt tiền, khó tìm và khó chế biến.
Nếu có thể nên hướng dẫn chế độ dinh dưỡng cho họ từ từ trong vài ngày hoặc trong vài tuần, không nên áp đảo người bệnh quá nhiều thông tin cùng một lúc và phải cho phép họ có thời gian tiếp thu, suy nghĩ và thắc mắc.
Điểu dưỡng cũng cần phải quan tâm đến việc kích thích sự thèm ăn của người bệnh: đau ốm, bệnh tật, lo âu hay đang điều trị bằng Thu*c có thể dẫn đến biếng ăn và ăn ít đi, do vậy thức ăn và cách thức ăn uống có ý nghĩa rất lớn. Người bệnh không được tự mua thức ăn, không được chế biến, chuẩn bị nó và còn phải ăn trong môi trường bệnh viện không thân thuộc làm giảm sự ăn ngon miệng.
Cần có sự hiện diện của người thân hay của người điều dưỡng cũng một phần giúp người bệnh ăn ngon miệng hơn.
Chia khẩu phần ăn của người bệnh ra thành từng bữa nhỏ, tránh áp đảo người bệnh với một lượng lớn thức ăn.
Nên thuyết phục người bệnh ăn những thức ăn mà họ thích nhưng cũng phải phù hợp với chế độ ăn điều trị.
Kiểm soát được tình trạng của người bệnh như đau, nôn, buồn nôn, mệt mỏi bằng cách thực hiện Thu*c theo y lệnh kịp thời giúp hạn chế tối đa ảnh hưởng của các triệu chứng bệnh lý đến sự ăn uống của người bệnh.
Nếu có thể, sắp xếp cho nhiều ngưòi bệnh được ăn cùng lúc với nhau, thu hút sở thích của người bệnh bằng cách quan tâm đến thứ tự của các món ăn và nhịp độ ăn của người bệnh.
Chỉ định hỗ trợ người bệnh ăn được áp dụng cho những người bệnh tỉnh táo, còn phản xạ nuôt và không tự ăn uống được.
Áp dụng chế độ ăn đa dạng: trên 10 loại thức ăn trong một bữa ăn và trên 25-30 loại thức ăn trong ngày.