Phương pháp nghiên cứu trong y học hôm nay

Kết quả nghiên cứu y học

Chương Kết quả nghiên cứu không được có bất kỳ một sự bình luận, giải thích nào, cũng không có bất kỳ sự so sánh nào với các công trình khác.

Chương Kết quả nghiên cứu là trung tâm của bài báo nghiên cứu. Các kết quả trình bày ở đây là kết quả của mục đích nghiên cứu đặt ra trong phần đặt vấn đề và kết quả của các phương pháp sử dụng để đạt tới kết quả. Đây là cơ sở cho việc bàn luận.

Nội dung chương kết quả nghiên cứu

Chương Kết quả nghiên cứu phải trình bày các kết quả của công trình, là mục đích của bài báo, tất cả phần viết đều là các kết quả và chỉ có kết quả mà thôi.

Tất cả các kết quả thu được

Cần trình bày ở đây tất cả các kết quả. Một trong những sai lầm không thể tha thứ khi viết báo khoa học là làm cho người đọc nhận thấy trong phần bàn luận hay thậm chí còn tệ hơn, ở phần tóm tắt có một kết quả mà nó không được đưa ra ở phần kết quả nghiên cứu. Sự phát hiện muộn màng này làm lúng túng người đọc. Khi thấy những kết quả mà khi đọc phần kết quả nghiên cứu không có, người đọc sẽ nghĩ có thể do lỗi của mình không chú ý nên phải đọc lại để rồi nhận ra lỗi của tác giả đã không áp dụng một nguyên tắc sơ đẳng của việc viết bài báo khoa học.

Khái niệm trình bày tất cả các kết quả đôi khi khá tinh tế. Phải trình bày các kết quả cả khi là kết quả âm tính. Khi chúng mang lại một thông tin có ích cho vấn đề nghiên cứu: một kết quả bình thường hay âm tính là một thông tin có thể có ích trong một quá trình chẩn đoán tiên lượng hoặc để tránh một trị liệu không hiệu quả. Ngược lại, đưa ra những kết quả không có liên quan tới mục đích đề tài đã nêu trong phần đặt vấn đề lại tạo ra một sự nhầm lẫn về ý thức. Những kết quả thừa này, có thể coi là những kết quả cơ hội không làm tăng thêm tính đáng tin cậy của bài báo. Nếu tác giả cho rằng các kết quả nhận được nằm ngoài mục đích nghiên cứu của mình mà có giá trị thực sự thì tốt hơn hết nó sẽ trở thành nội dung của một bài báo khác.

Chỉ có kết quả mà thôi

Chương Kết quả nghiên cứu không được có bất kỳ một sự bình luận, giải thích nào, cũng không có bất kỳ sự so sánh nào với các công trình khác, không có bất kỳ sự ám chỉ nào tới nhóm nghiên cứu hay tới phương pháp nghiên cứu mà điều đó đã được mô tả trong chương Tư liệu và phương pháp. Do vậy chương Kết quả nghiên cứu không được trích dẫn bất kỳ tài liệu tham khảo nào.

Việc trình bày chương Kết quả nghiên cứu phải khách quan, không cá nhân, càng trung lập càng tốt: tác giả trình bày các sự kiện thu thập được và chỉ làm việc đó. Trong cách nhìn nhận như vậy, C. Bernard dẫn nhà tự nhiên học F. Huber, do bị mù nên sử dụng người giúp việc để quan sát các sự kiện. Nói một cách khác chương Kết quả nghiên cứu phải để cho người đọc khả năng tự rút ra các kết luận của riêng mình trước khi so sánh với kết luận của tác giả.

Các sai lầm không được mắc

Đưa ra các kết quả ngoài lề không có liên quan với mục đích của đề tài. Đưa ra các nhận xét:

"Nói tóm lại, các xét nghiệm đánh giá là khá thất vọng”: các kết quả vẫn là cái vốn có. Bạn sẽ thảo luận việc thất vọng hay không trong phần bàn luận.

“Các kết quả chung tốt”: cùng nhận xét.

“Việc nghiên cứu kết quả khó khăn do...”

“Chúng tôi lấy làm tiếc”. Không, bạn nhận thấy, bạn đã quan sát thấy nhưng khi mô tả một kết quả bạn không thích thú, không buồn phiền, không ngạc nhiên hay bị ngạc nhiên.

“Sự tiến triển không may là phải...”: Tiến triển vẫn như vậy. Từ “không may” là thừa.

Sai lầm không thể tha thứ

Không đưa tất cả các kết quả ở chương Kết quả mà làm người đọc lại phát hiện thêm trong chương Bàn luận hay ở phần Tóm tắt.

Các bảng và biểu đồ

Một trong những khó khăn tạo ra do cấu trúc của bài báo nghiên cứu là nguy cơ và băn khoăn để tránh nguy cơ đó - lặp lại giữa việc trình bày các kết quả và nhắc lại chúng để làm cơ sở cho thảo luận trong chương Bàn luận. Nguy cơ này được hạn chế nhờ việc sử dụng các biểu đồ và bảng trong chương Kết quả. Trong thực tế, khi thảo luận việc dẫn chứng các bảng và biểu đồ cho phép nhận xét các kết quả thể hiện ở trong đó mà không phải nhắc lại.

Một lợi điểm khác của bảng và biểu đồ là thể hiện tối đa thông tin trong khi chiếm ít chỗ nhất, dưới dạng tổng hợp và sáng sủa. Tuy nhiên, tốt nhất chỉ nên sử dụng các bảng và biểu đồ - mà việc tạo lập phức tạp hơn viết chữ - khi lợi ích mà nó mang lại cho bài báo về mặt sự sáng sủa và súc tích là rõ ràng.

Các bảng và biểu đồ phải có tính độc lập về thông tin, nghĩa là tự bản thân chúng có thể hiểu được nhờ vào các chú giải, đầu đề và các chỉ dẫn ở cuối bảng. Trong bài không được nhắc lại các thông tin đã có trong các bảng biểu. Tuy nhiên tác giả có thể giải thích ngắn gọn ở phần bài viết các số liệu trong bảng hay trong biểu đồ, nhất là khi điều này mang lại lợi ích và sự sáng sủa trong trình bày. Chỉ cần giữ sao cho đừng biến phần viết đi kèm một bảng hay biểu đồ thành một phần bình luận.

Chúng tôi khuyên các tác giả nên bắt đầu việc viết chương Kết quả bằng việc tạo lập các bảng và biểu đồ.

Sau đó viết phần nội dung để hoàn thiện. Các biểu đồ, có thể dễ hiểu hơn thường thích hợp cho việc trình bày miệng (hoặc trong một bài giảng), và các bảng số liệu trong một bài báo viết đăng công trình nghiên cứu.

Nguyên lý viết báo khoa học trong chương kết quả nghiên cứu

Thì động từ

Giống như trong chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu, thì động từ phải để ở thì quá khứ. Trên thực tế, các kết quả được quan sát trong quá khứ, ngay cả khi mới xảy ra. Thì hiện tại tường thuật là một sai lầm về logic. Việc sử dụng thì này thường dẫn tới sự lẫn lộn động từ giữa hiện tại và quá khứ: “Trung bình của hệ thống đạt tới... Hai hai bệnh nhân đã bị... Nhóm thứ hai có 99 bệnh nhân bao gồm...”

Sự chính xác

Sự chính xác phải được thể hiện trong sự tương thích của các số liệu sao cho các tổng số phải bằng với tổng các phần cả trong bài viết cũng như trong các bảng số liệu và biểu đồ.

Khi các kết quả bao gồm các dưới nhóm, những số liệu này phải tương thích với các dưới nhóm đã được xác định ở chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu.

Sự sáng sủa

Trong chương Kết quả nghiên cứu các tác giả thường cố gắng trình bày trước hết những gì họ cho là quan trọng nhất. Cách làm này có thể dẫn tới việc trình bày một kết quả lâu dài trước một kết quả sớm. Điều đó là logic với tác giả nhưng về mặt trình tự là không logic và làm độc giả mất phương hướng. Khi trình bày các kết quả nên theo một trật tự hợp lý: trình bày các kết quả bình thường trước các kết quả bất thường, bắt đầu bằng việc trình bày các kết quả sớm trước khi trình bày các kết quả lâu dài. Chỉ trong chương Bàn luận là nơi các tác giả có thể so sánh giá trị của kết quả này so với kết quả khác.

Cùng trình tự suy nghĩ như vậy, nếu có nhiều phương pháp được trình bày trong chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu, phải tôn trọng cùng thứ tự trình bày khi trình bày kết quả nghiên cứu. Một số tạp chí cho phép sử dụng các phụ đề với điều kiện phải sử dụng cùng một phụ đề trong cả chương Tư liệu và phương pháp cũng như trong chương Kết quả.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/vietbaoyhoc/ket-qua-nghien-cuu-y-hoc/)

Tin cùng nội dung

  • Bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, bác sĩ phải tận dụng thời gian vàng để giành mạng sống người bệnh. Họ chỉ mất vài phút để xét nghiệm máu và đưa ra phác đồ điều trị kịp thời.
  • Em có khám sức khỏe tổng quát tại bệnh viện Chợ Rẫy, trong đó có xét nghiệm máu và đã có kết quả âm tính với HIV, nay em muốn xin một giấy chứng nhận không bị nhiễm HIV riêng, bản tiếng Anh. Cho em hỏi có thể làm ở đâu và mình có phải xét nghiệm lại không hay chỉ cần đem kết quả đã có để làm bản chứng nhận riêng?(do yêu cầu của công ty nên em cần 1 bản chứng nhận HIV bằng tiếng Anh riêng). Nhờ mangyte.vn tư vấn giúp. (Hoang Lan - TPHCM)
  • Tính khí thất thường là một biểu hiện khá bình thường ở trẻ em, nhưng đôi khi sự thất thường ấy lại là nguyên nhân khiến bầu không khí gia đình thêm căng thẳng. Liệu đứa trẻ ấy có hư và cha mẹ chúng nên làm gì?
  • Nhồi máu cơ tim (còn được gọi là cơn đau tim) xảy ra khi một phần của cơ tim bị phá hủy hoặc ch*t vì nó không nhận được đủ oxy. Nhồi máu cơ tim thường có thể điều trị được khi được chẩn đoán sớm. Tuy nhiên, nếu không điều trị nhồi máu cơ tim có thể gây Tu vong.
  • Tế bào gốc là loại tế bào đặc biệt, nó thay thế và tái tạo lại các mô bị ảnh hưởng bởi bệnh tật, tuổi tác... Nghiên cứu tế bào gốc đem lại hy vọng…
  • Chứng đau đầu không đơn giản là do tinh thần căng thẳng, hay do cảm cúm. Dọn dẹp nhà cửa, hay ngủ muộn cũng có thể gây ra đau đầu.
  • Nếu bạn cũng giống như hầu hết các phụ nữ khác, cơn đau trong lúc chuyển dạ và sinh nở sẽ là một trong những điều làm bạn lo lắng khi dự định có con. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì hầu hết phụ nữ đều bị đau khi sinh.
  • Chuyển dạ là quá trình giúp tống thai và nhau ra khỏi tử cung và bắt đầu một cuộc sống mới bên ngoài tử cung của bé. Đôi khi, chuyển dạ không tự khởi phát được, trong trường hợp này các bác sĩ phải sử dụng Thu*c giúp khởi động quá trình chuyển dạ để người mẹ có thể sinh ngả *m đ*o. Quá trình này được gọi là “khởi phát chuyển dạ” hay còn gọi là giục sanh.
  • Sau phẫu thuật, trẻ thường gặp vấn đề với các cơn đau nhưng thật may là có nhiều phương pháp để làm dịu các cơn đau này. Vậy phương pháp nào là hiệu quả, tốt nhất cho trẻ
  • Làm thế nào để bé có thể chuẩn bị được tin thần, và sẵn sàng cho việc phải thực hiện thủ thuật y khoa
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY