Sức khỏe hôm nay

Nấm *m đ*o biến chứng: Cập nhật chẩn đoán và điều trị

Nấm âm hộ và *m đ*o (VVC: Vulvovaginal candidiasis) là nguyên nhân gây viêm *m đ*o thường gặp đứng hàng thứ 2 sau viêm *m đ*o do vi khuẩn.
Khoảng 75% phụ nữ có ít nhất một lần bị VVC trong cuộc đời và khoảng 40 - 45% trường hợp bị viêm từ 2 lần trở lên.

Tỉ lệ bị VVC khi phụ nữ đến 25 tuổi là 10% và khi đến 50 tuổi, tỉ lệ này tăng lên đến 25%. Hầu hết trường hợp VVC là do nhiễm Candida albicans (C. albicans), chiếm 85 - 90%. Triệu chứng của nhiễm VVC bao gồm: ngứa, đỏ *m đ*o, đau khi quan hệ, đau âm hộ và ra dịch *m đ*o bất thường. Chẩn đoán dựa vào dấu hiệu lâm sàng, soi tươi huyết trắng thấy sợi tơ nấm hoặc bào tử nấm, pH < 4,5, whiff test âm tính. Cấy nấm được lựa chọn thực hiện trên những trường hợp nhiễm nấm tái phát hay triệu chứng lâm sàng hoặc cận lâm sàng khác không rõ ràng, việc cấy nấm sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình điều trị. Dựa vào biểu hiện lâm sàng, tác nhân gây bệnh và đáp ứng điều trị, VVC được chia ra thành: VVC không biến chứng và VVC biến chứng. Khoảng 10 - 20% phụ nữ bị VVC biến chứng cần được chẩn đoán và điều trị chuyên biệt.

VVC tái phát (rvvc)

- RVVC được định nghĩa khi bị VVC ≥ 4 lần trong một năm, ảnh hưởng đến khoảng < 5% phụ nữ. S*nh l* bệnh của RVVC không được biết rõ ràng. Tác nhân Candida glabrata (C. Glabrata) Candida nonalbicans (C. nonalbicans) thường gây RVVC trong 10 - 20% trường hợp. Trong 1 báo cáo của Jack D Sobel và cộng sự thấy C. albicans gây ra 93,9% RVVC, C. glabrata gây ra 3% . Điều trị kháng nấm đơn thuần thường không hiệu quả trong việc điều trị RVVC do nhóm C. nonalbicansnhư là với nhóm C. albican.

Hầu hết trường hợp VVC là do nhiễm Candida albicans

- Điều trị: RVVC do C.albicans thường đáp ứng tốt với điều trị ngắn hạn nhóm azole tại chỗ hay uống. Tuy vậy, để hiệu quả điều trị tốt hơn, các chuyên gia khuyến cáo thời gian điều trị ban đầu nên dài hơn (7 - 14 ngày điều trị tại chỗ hoặc uống fluconazole 100mg, 150mg hay 200mg; uống tổng cộng 3 liều, mỗi 3 ngày vào các ngày 1, ngày 4 và ngày 7) nhằm ức chế nấm tốt hơn trước khi bắt đầu vô giai đoạn điều trị duy trì. Uống fluconazole (100mg, 150mg hay 200mg) mỗi tuần, trong 6 tháng là điều trị duy trì được nghĩ đến đầu tiên. Nếu việc điều trị này không thể thực hiện được thì có thể nghĩ đến điều trị tại chỗ. Việc điều trị duy trì này có tác dụng làm giảm nguy cơ tái phát. Tuy vậy, vẫn có đến 30 - 50% phụ nữ bị tái phát sau khi điều trị duy trì kết thúc. Theo báo cáo của Jack D Sobel và cộng sự cho thấy tỉ lệ RVVC nếu không điều trị duy trì sau 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng lần lượt là 64,1%, 72,2% và 78,8%; so với nhóm có điều trị duy trì bằng fluconazole 150mg mỗi tuần lần lượt là 9,2%, 26,8% và 57,1%. Tỉ lệ khỏi bệnh sau 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng của nhóm dự phòng bằng fluconazole là 90,8%, 73,2% và 42,9%; so với nhóm không điều trị duy trì là 35,9%, 27,8% và 21,9% (P < 0,001). Thời gian tái phát trung bình là 10,2 tháng ở nhóm duy trì fluconazole, so với chỉ 4 tháng ở nhóm không duy trì fluconazole (P < 0,001). Chính vì vậy, các tác giả đã kết luận việc điều trị duy trì hàng tuần bằng fluconazole sẽ làm giảm tỉ lệ tái phát. Tuy nhiên, việc đảm bảo khỏi bệnh hoàn toàn lâu dài khó có thể đạt được, vẫn có tỉ lệ tái phát. Trong một phân tích tổng hợp do Maria I Rosa (2013) báo cáo cho thấy việc điều trị duy trì fluconazole có hiệu quả làm giảm tỉ lệ nấm tái phát 90% ngay sau điều trị tấn công, 77% sau 3 tháng điều trị và 61% sau 6 tháng điều trị.

- Trong một nghiên cứu được báo cáo của S Fan và cộng sự (2015) về hiệu quả của điều trị tấn công nystatin 20MU đặt *m đ*o mỗi ngày, trong 14 ngày và duy trì nystatin 20MU đặt *m đ*o mỗi ngày, trong 14 ngày (7 ngày trước và sau hành kinh), kéo dài 6 tháng để phòng ngừa RVVC. Kết quả cho thấy việc sử dụng nystatin có hiệu quả tương đương với điều trị tấn công và duy trì bằng fluconazole 150mg mỗi tuần khi nhiễm nấm C. albicans trong RVVC. Tuy nhiên, nystatin có hiệu quả hơn fluconazole trong trường hợp nhiễm nấm C. glabrata (tỉ lệ khỏi bệnh là 64,3% so với 12,5%) và nhóm Candida kháng fluconazole.

- Cũng theo Jack D Sobel (2016), intraconazole cũng có hiệu quả trong việc điều trị RVVC do C. albicans.

VVC mức độ nặng

- VVC mức độ nặng được chẩn đoán khi âm hộ, *m đ*o bị nhiễm nấm gây ra tình trạng viêm đỏ, phù nề, trầy hay nứt. Bệnh cảnh này thường ít đáp ứng với điều trị ngắn hạn tại chỗ hoặc uống. Fluconazole 150mg uống 2 lần cách nhau 72 giờ hoặc nhóm azole đặt tại chỗ 7 - 14 ngày được khuyến cáo sử dụng trong bệnh cảnh này (CDC, 2015).

- Khi so sánh hiệu quả của 2 liều clotrimazole 500mg đặt *m đ*o so với 2 liều fluconazole 150mg uống cách nhau 72 giờ trong điều trị VVC mức độ nặng thấy rằng hiệu quả của 2 Thu*c tương đương với nhau (Zhou và cs., 2016).

Mức độ nặng khi âm hộ, *m đ*o gây ra tình trạng viêm đỏ, phù nề, trầy hay nứt

VVC non-albicans

Một điều cần lưu ý khi điều trị VVC non-albicans đó là 50% bệnh nhân sẽ không có triệu chứng hoặc triệu chứng rất ít, vì vậy, việc điều trị thường trở nên khó khăn. Các nhà lâm sàng nên tập trung vào việc loại trừ các nguyên nhân khác gây ra các triệu chứng khó chịu tại *m đ*o trên bệnh nhân bị nhiễm nấm non-albicans. Không có Thu*c nào được xem là điều trị tốt nhất cho nhiễm nấm non-albicans. Các điều trị dài ngày (7 - 14 ngày) bằng nhóm azole khác nhóm fluconazole (uống hay đặt *m đ*o) được xem là lựa chọn đầu tiên. Nếu bị tái phát, boric axít 600mg sẽ được khuyến cáo đặt *m đ*o 1 viên mỗi ngày, trong 2 tuần. Tỉ lệ điều trị triệt để khoảng 70%.

VVC trong thai kỳ
- Nấm Candida thường trú trong *m đ*o trong ít nhất 20% số phụ nữ, tỉ lệ này tăng lên 30% khi mang thai. Phụ nữ mang thai có tỉ lệ VVC có triệu chứng cao hơn phụ nữ không mang thai. Trong thai kỳ, nấm Candida *m đ*o có thể biểu hiện có triệu chứng hoặc không triệu chứng. Chưa có nhiều chứng cứ cho thấy các triệu chứng của VVC xảy ra nhiều hơn trong thai kỳ so với lúc không mang thai. Theo một báo cáo thấy rằng tỉ lệ RVVC tăng dần lên theo thai kỳ, với chỉ 0,1 ± 0,48 trong tam cá nguyệt I, tăng lên 0,92 ± 0,76 trong tam cá nguyệt II và 2,16 ± 0,63 trong tam cá nguyệt III.- Hiện tại, chưa có nhiều chứng cứ tin cậy cho thấy ảnh hưởng của nhiễm nấm lên thai kỳ. Tuy nhiên, một vài chứng cứ gần đây thấy rằng nhiễm RVVC không triệu chứng trong giai đoạn sớm thai kỳ làm gia tăng tỉ lệ sinh non (11,9% so với 9,5%) và trẻ nhẹ cân (10,8% so với 8%), tăng tỉ lệ vỡ ối non và gây ra dư hậu không tốt cho thai kỳ.- Việc điều trị VVC không triệu chứng dường như có thể làm giảm nguy cơ sinh non so với không điều trị.- Nystatin và nhóm imidazole đặt tại chỗ (clotrimazole, econazole, miconazole) là Thu*c được lựa chọn để điều trị VVC trong thai kỳ. Sử dụng clotrimazole cho thấy có hiệu quả hơn placebo, sử dụng đơn liều không hiệu quả bằng sử dụng 3 - 4 ngày, sử dụng 4 ngày không hiệu quả bằng sử dụng 7 ngày và sử dụng 7 ngày không hiệu quả bằng sử dụng 14 ngày. Không nên lựa chọn các Thu*c kháng nấm nhóm azole (gồm fluconazole) đường uống do làm tăng tỉ lệ dị tật cho thai nhi.- Tại Đức, việc tầm soát và điều trị VVC trong những tuần cuối thai kỳ được khuyến cáo thực hiện do có nghiên cứu cho thấy có hiệu quả trong việc làm giảm tỉ lệ trẻ sơ sinh bị nấm họng và viêm da do hăm tã từ 10% xuống còn 2% trong 1 năm đầu sau khi sinh.BS.CKII. NGUYỄN DUY LINH

(Bệnh viện Quốc tế Phương Châu)

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (http://suckhoedoisong.vn/nam-am-dao-bien-chung-cap-nhat-chan-doan-va-dieu-tri-n134147.html)

Tin cùng nội dung

  • Phần lớn những tác dụng phụ liên quan đến việc ăn uống do điều trị ung thư sẽ biến mất sau khi kết thúc quá trình điều trị. Vài lời khuyên cho một chế độ ăn uống tốt sau trị liệu ung thư.
  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Màng ngăn là một dụng cụ Tr*nh th*i hình nón vòm hướng vào và khít với cổ tử cung.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY