Nhưng đáng lo ngạilà các triệu chứng này có thể là biểu hiện của bệnh lý u não. Vì thế mà nhiều bệnh nhân không đượcchẩn đoán và chữa trị kịp thời đã nguy hiểm đến tính mạng.
Có rất nhiều quan điểm về nguyên nhân gây u não, nhưng theocác nhà chuyên môn, nguyên nhân của đa số u não lành tính và u não ác tính chưa được biết rõ. Yếutố di truyền có thể là một nguy cơ mắc bệnh. Còn có cả các di căn não phát sinh từ căn bệnh ung thưkhác nhau của cơ thể.
U não lành tính và u não ác tính nguyên phát không phải là bệnh phổ biến. Tuy nhiên, bệnh có thểxảy ra ở mọi lứa tuổi. Đối với trẻ em, thường gặp một số loại như u nguyên bào tủy. Ở người lớn,hay gặp u màng não lành tính và u thần kinh đệm được gọi là u nguyên bào thần kinh đệm đa dạng(GBM), các khối u có xu hướng xảy ra ở người lớn sẽ có tần suất mắc bệnh tăng theo tuổi. Di căn nãothường gặp hơn u não lành tính và u não ác tính nguyên phát.
Dựa trên cơ sở xem xét rất nhiều yếu tố bao gồm khối u nói riêng và tình trạng sức khỏe chungcủa bệnh nhân mà các bác sĩ quyết định các biện pháp điều trị cho thích hợp.
Đối với bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật, với hầu hết các loại u não (trừ một số khối u nhỏ cóthể điều trị xạ, hoặc vị trí không thể phẫu thuật) và có vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điềutrị và tiên lượng. Phẫu thuật cắt bỏ u lành tính có tính chất quyết định cho kết quả điều trị.
Tuyvậy, việc phẫu thuật lấy hết u, khó có thể thực hiện được nếu khối u có ranh giới không rõ hoặc ởvị trí không thuận lợi (như ở thân não, ở vùng đáy não...), khi đó chỉ có thể lấy được một phầnkhối u hoặc chỉ sinh thiết để làm giải phẫu bệnh.
Phẫu thuật lấy hết u có tiên lượng tốt hơn, cắt bỏ được một phần u giúp cải thiện được các triệuchứng thần kinh, giảm áp lực nội sọ, đồng thời giúp cho chẩn đoán mô bệnh học để có kế hoạch điềutrị xạ, hóa chất và tiên lượng.
Phẫu thuật mở sọ cắt bỏ khối u có thể có biến chứng, như tổn thương chức năng thần kinh vùng lâncận, nhiễm khuẩn, thậm chí Tu vong khi phẫu thuật.
Đối với bệnh nhân được chỉ định xạ trị sẽ giúp tiêu diệt các tế bào u còn sót lại sau phẫuthuật. Hiện nay, thường áp dụng được đối với trẻ từ 4 tuổi trở lên. Liều xạ, vị trí xạ phụ thuộcvào bản chất mô bệnh học, vị trí và thể tích khối u còn lại sau phẫu thuật. Xạ phẫu bằng tia gamma(gamma knife) chỉ áp dụng được với u nhỏ (đường kính dưới 3cm) và ở vị trí thuận lợi.
Với điều trị hóa chất áp dụng đối với một số loại nhạy cảm với hóa chất, có thể điều trị sauphẫu thuật, trong và sau tia xạ, trước phẫu thuật (đối với khối u lớn, khó phẫu thuật...). Liềulượng, cách dùng hóa chất tùy theo phác đồ phù hợp với bản chất mô bệnh học và lứa tuổi.