Tăng là có quá nhiều glucose trong máu, phản ánh sự dư thừa glucose tại các mô của cơ thể. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nếu lúc đói lớn hơn hoặc bằng 1,26g/l (7mmol/l) là có tăng đường huyết.
Nếu thử vào bất cứ lúc nào trong ngày lớn hơn hoặc bằng 2g/l (11mmol/l) là tăng sau bữa ăn.
Cơ quan có nhiệm vụ điều chỉnh và ổn định lượng đường trong máu là tuyến tụy, thông qua nội tiết tố insulin. Nếu vì lý do nào đó mà insulin không được bài tiết đủ để giải quyết lượng đường trong máu thì cao hơn mức bình thường.
Tình trạng đó nếu kéo dài thì bệnh đái tháo đường xuất hiện. Điểm khác biệt giữa người bình thường và bệnh nhân đái tháo đường là thời gian để lượng đường trong máu sau bữa ăn trở về trị số sinh học kéo dài hơn ở người bị bệnh - khoảng thời gian này càng lâu, bệnh càng nặng.
Thế nào là hạ ĐH?
Hạ ĐH là một cụm từ dùng để chỉ sự giảm lượng đường trong máu dưới mức bình thường (đường ở đây muốn ám chỉ là loại đường glucose và mức bình thường được quy định từ 3,9-6,4 mmol/l).
Glucose là nguồn năng lượng chính của cơ thể, đồng thời cũng là nguồn nhiên liệu cực kỳ quan trọng và cần thiết cho hệ thần kinh và tổ chức não bộ. Nhưng glucose vừa là thực phẩm tốt nhất mà cũng xấu và cần được tiêu thụ một cách thận trọng.
Glucose huyết thấp khi tỷ lệ glucose thấp hơn 0,8g/l và cao khi ở mức 1,2g/l. Khi glucose huyết cao thì nhiều cơ chế thích nghi xảy ra: insulin được sản xuất bởi tuyến tụy, nhằm mục đích giảm tỷ lệ đường trong máu và đường sẽ được tích tụ lại trong gan và cơ bắp dưới dạng glycogen, còn số thừa sẽ bị biến thành mỡ.
Tùy lứa tuổi, giai đoạn bệnh, mức độ các biến chứng… mà mức ĐH an toàn của mỗi người bệnh có thể khác nhau nhưng không nhiều.
Các cơ quan tham gia vào quá trình chuyển hóa đường
Nếu quá cao, mọi phản ứng sinh học bị xáo trộn. Hậu quả là chất đạm, chất béo không được chuyển thể như bình thường khiến chất mỡ tích lũy một cách thái quá, chất đạm bị phân hủy một cách cường điệu do phản ứng sai lầm của cơ thể trong tình trạng chất đường trong máu tăng cao quá lâu.
Do đó gây xơ vữa mạch máu, chai não, thoái hóa võng mạc, viêm thận, hoại tử mô mềm, dị ứng… và thậm chí ung thư.
Chỉ số viết tắt là GI (glycemic index) là chỉ số phản ánh tốc độ làm tăng sau khi ăn các thực phẩm giàu chất bột đường.
Chất bột đường hiện diện ở hầu hết các loại thực phẩm chúng ta dùng hàng ngày như: cơm, bún, bánh mì và ngay cả trong sữa công thức dành cho trẻ đang lớn.
Chỉ số GI của một thực phẩm được phân loại: thấp, trung bình hoặc cao. Thực phẩm có chỉ số GI cao thường chứa loại đường glucose hấp thu nhanh. Điều đó có nghĩa là sau khi ăn các thực phẩm loại này, thì mức đường glucose trong máu sẽ tăng vọt lên rất nhanh, nhưng cũng giảm nhanh ngay sau đó.
Trong khi đó, các thực phẩm có chỉ số GI thấp sẽ tốt hơn vì mức được tăng lên từ từ đều đặn và cũng giảm xuống một cách chậm rãi, giúp giữ được nguồn năng lượng ổn định, có lợi hơn cho sức khỏe và trí não.
Với bệnh nhân đái tháo đường, việc dùng các loại thức ăn chỉ số thấp làm cho dễ kiểm soát hơn, vì sẽ tăng từ từ sau ăn chứ không tăng vọt một cách đột ngột. Ngoài ra, thực phẩm có chỉ số thấp còn cải thiện chuyển hóa lipid, đặc biệt đối với đái tháo đường týp 2.