Trong dân gian, rau má được dùng để chữa một số chứng bệnh thông thường rất hiệu nghiệm. Theo các sách Thuốc cổ như: Bản thảo cương mục, Dược tính luận, Nam dược thần hiệu, rau má có vị đắng, tính hàn, vào 3 kinh can, tỳ và thận, có công dụng thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu thũng giải độc, dùng chữa các chứng tiết tả mùa Hè, bịnh lỵ, vàng da do thấp nhiệt, sỏi đường tiết niệu, bỏng, khái huyết, thổ huyết đau mắt đỏ dị ứng mẩn ngứa…
Ảnh minh họa.
Dược lý học hiện đại nghiên cứu cho thấy: Rau má có chứa glucorit như asiaticoside cenlelloside các saponin như Brahmic axit, madasiatic axit và một số chất khác như carotrnoids... Nghiên cứu thực nghiệm trên chuột bạch, các nhà khoa học nhận thấy rau má có tác dụng trấn tĩnh, an thần thông qua cơ chế tác động trực tiếp lên hệ thống thần kinh trung ương.
Rau má có tác dụng điều trị các vết ở da và niêm mạc là do các saponin chứa trong dịch chiết có tác dụng kích thích quá trình sinh trưởng của tế bào da, làm tăng sinh mạng lưới huyết quản của tổ chức liên kết giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng khiến vết thương mau lành. Mặt khác, rau má còn có tác dụng kháng khuẩn rõ rệt, làm giảm trương lực cơ trơn ở ruột (chống co thắt), hưng phấn nhẹ hô hấp và hạ huyết áp.
Vàng da do thấp nhiệt: Rau má 30 - 40g, đường phèn 30g sắc uống; đi lỏng do trúng thực: Rau má 30g sắc với nước vo gạo uống hàng ngày; giải ngộ độc Thuốc và thực phẩm: Rau má tươi giã nát ép lấy nước uống (có thể thêm một chút đường phèn)…
Đặc biệt, vào ngày hè nóng nắng, rau má được dùng để giải nhiệt, trị rôm sẩy, mẩn ngứa, mát gan, lợi tiểu: Rau má tươi 30 - 100g rửa sạch, giã nát vắt lấy nước uống hàng ngày hoặc dùng máy xay sinh tố xay nát rồi hòa đường uống. Trị trúng nắng, với tác dụng thanh thử: Rau má, củ sắn dây, hương nhu, nấu nước uống.
Rau má có tính lạnh nên những người hư hàn không nên dùng thường xuyên.