Nhi Truyền nhiễm hôm nay

Bên cạnh chức năng chữa trị các bệnh lý nhi khoa do vi sinh vật gây ra như: vi khuẩn, virut, ký sinh trùng, nấm,... ; công tác khám chữa bệnh của Khoa Nhi Truyền còn bao gồm các kỹ thuật xử trí suy hô hấp như hút dịch đường thở, đặt nội khí quản; khám chữa và chăm sóc trẻ nhiễm HIV/AIDS, và tư vấn cho gia đình có trẻ mắc bệnh trên; cũng như thực hiện tiêm chủng vắc xin theo chương trình tiêm chủng mở rộng do Bộ Y Tế chỉ đạo. Các căn bệnh truyền nhiễm phổ biến ở trẻ em và dễ hình thành dịch bệnh như: viêm não Nhật Bản, thuỷ đậu, sởi, ho gà, quai bị, viêm màng não nhiễm khuẩn, viêm màng não do virut, lao màng não, bạch hầu, uốn ván, nhiễm khuẩn huyết, viêm gan virut,...

Tiếp cận và dự phòng các bệnh truyền nhiễm

Thủ nghiệm da tìm bệnh lao và sau đó điều trị các bệnh nhân có lựa chọn, phản ứng da dương tính với isoniazid phòng bệnh làm giảm nguy cơ bệnh lao hoạt động trở lại.

Mặc dù có những thành tựu về tiêm chủng và liệu pháp kháng sinh, phần nhiều việc giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ ch*t do các bệnh nhiễm khuẩn được quy cho là nhờ các liệu pháp sức khỏe công cộng tốt hơn - đặc biệt là hệ thống vệ sinh được cải thiện, dinh dưỡng tốt hơn và sự phồn vinh tăng lên.

Tiêm chủng vẫn là phương tiện tốt nhất để dự phòng nhiều bệnh nhiễm khuẩn bao gồm uốn ván, bạch hầu, bại liệt, sởi, quai bị, rubêola, viêm gan B, sốt vàng, cúm, viêm phổi do phế cầu khuẩn, nhiễm khuấn hemophilus influenzae typ B. Những người đi tới các nước có bệnh nhiễm khuẩn lưu hành địa phương thì phải thận trọng đặc biệt

Thủ nghiệm da tìm bệnh lao và sau đó điều trị các bệnh nhân có lựa chọn, phản ứng da dương tính với isoniazid phòng bệnh làm giảm nguy cơ bệnh lao hoạt động trở lại. Các bệnh nhân nhiễm HIV đặc biệt có nguy cơ cao phục hồi họạt động của bệnh lao. Dự phòng và điều trị lao ở những người nhiễm HIV được thảo luận ở chương riêng vì hiện nay đang quan tâm nhiều hơn về bệnh lao kháng nhiều Thu*c.

AIDS ngày nay là vấn đề bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu ở thế giới phương Tây. Vì tiếp xúc T*nh d*c là phương thức truyền bệnh thông thường, việc dự phòng phải trông cậy vào các thói quen tinh dục, tuy rằng ngày càng tăng những trường hợp nhiễm HIV được truyền do tiêm M* t*y vào tĩnh mạch. Thử nghiệm kháng thể HIV hiện nay được thực hiện rộng rãi có độ nhậy và độ đặc hiệu cao. Song sự biến chuyển huyết thanh sau nhiễm bệnh phải mất 6 tháng và có lẽ còn lâu hơn, nên các kết quả âm tính giả có thể xẩy ra. Phần lớn các nhà lâm sàng hiện nay ủng hộ việc thử nghiệm chọn lựa cho những người có nguy cơ cao. Việc phát hiện những người khpng có triệu chứng mà đã nhiễm HIV là quan trọng đối với các chiến lược dự phòng và cho phép họ lo đến việc điều trị giúp cho họ kéo dài cuộc sống.

Mặc dù các vaccin virus sống (như là vaccin sởi, quai bị và rubêola [MMR]) (Vaccin huyết thanh khỉ Macacus Mulelta đã bị rubêola) thường không được khuyên dùng cho những bệnh nhân bị tổn thương miễn dịch, những bệnh nhân nhiễm HIV không có triệu chứng thường đã không biểu hiện những hậu quả có hại khi họ tiêm các vaccin đó. Do đó, những cá nhân này phải được tiêm chủng MMR và cúm cũng như uốn ván, viêm gan B, H. Influenzae typ B và phế cầu khuẩn. Song nếu cầu tiêm chủng bại liệt, phải dùng vaccin bại liệt khử hoạt tính. Phải cho các bệnh nhân nhiễm HIV không triệu chứng vaccin cúm hàng năm, nhưng phải thận trọng dùng các vaccin sống nhự là MMR.

Ban phòng chống bệnh lây đã công bố một chiến lược mới để thanh toán sự lây truyền virus viêm gan B. Các khuyến nghị bao gồm thử nghiệm trước khi sinh tất cả các thai phụ về di truyền kháng thể đặc hiệu viêm gan B để xác định các trẻ sơ sinh cần có globulin miễn dịch viêm gan B khi sinh ra, sau đó được tiêm chủng viêm gan B và xác định những người tiếp xúc với người bệnh trong gia đình cần được tiêm chủng, tiêm chủng cho thanh thiếu niên ở các cộng đồng nơi thường có sử dụng tiêm M* t*y tĩnh mạch, có thể ở tuổi thanh thiếu niên hoặc các bệnh lây truyền đường Sinh d*c; và tiêm chủng cho những người lớn có nguy cơ nhiễm khuẩn cao. Những người lớn này bao gồm những người có nguy cơ nghề nghiệp, khách hàng và nhân viên của các cơ sở cho người bị khuyết tật phát triển; các bệnh nhân thẩm phân máu; những người nhận các nhân tố đông máu cô đặc; những ngưòi tiếp xúc trong gia đình và các bạn tình của những người mang virus viêm gan B; các con nuôi từ các nước có nhiễm virus viêm gan B lưu hành địa phương; những du khách quốc tế; những người tiêm chích M* t*y; những người nam và nữ luyến ái đồng tính có hoạt động T*nh d*c, đặc biệt những người mới bị bệnh lây truyền đường T*nh d*c; và những người sống dài hạn trong các nhà tù.

Năm cuối cùng cho các báo cáo mới về các trường hợp bại liệt ở Tây bán cầu đã là 1991. Một mục tiêu được lập nên về thanh toán trên toàn thế giới bệnh bại liệt vào năm 2000; nếu thành công thì sự thanh toán này sẽ theo sau thanh toán bệnh đậu (1978) và bệnh giun chỉ Mêđin (vào năm 1996).

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/chandoantrieuchung/tiep-can-va-du-phong-cac-benh-truyen-nhiem/)

Chủ đề liên quan:

bệnh truyền nhiễm dự phòng truyền

Tin cùng nội dung

  • Hemophilia là một nhóm bệnh rối loạn đông máu di truyền do giảm yếu tố VIII, yếu tố IX hoặc yếu tố XI
  • Một nhà khoa học Mỹ quả quyết, chứng trầm cảm nên được tái định nghĩa là một căn bệnh truyền nhiễm, thay vì một rối loạn cảm xúc.
  • Bà Miến có bài Thuốc gia truyền 6 đời, sử dụng các cây dược liệu quý trên rừng chữa khỏi bệnh phù thũng do thận mà y học hiện đại gọi là chứng viêm cầu thận.
  • Bệnh trĩ là bệnh phổ biến ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Tỉ lệ mắc bệnh trĩ tại Việt Nam chiếm khoảng 60% dân số.
  • Em đang điều trị viêm loét dạ dày do HP, đã dùng xong đợt kháng sinh, nhưng em bị sút cân và suy nhược. Vậy em muốn truyền dịch (sinh tố) có được không? Em xin cảm ơn BS.
  • Khảo sát dẫn truyền dây thần kinh giúp kiểm tra xem các dây thần kinh dẫn truyền các tín hiệu điện có tốt và có nhanh hay không.
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Những điều cần biết khi thực hiện xét nghiệm di truyền.
  • Dịch vụ phòng ngừa là rất quan trọng cho tất cả mọi người, đặc biệt là đối với người cao tuổi. Đó là vì nguy cơ gặp các vấn đề về sức khỏe tăng lên khi bạn có tuổi. Bằng cách ngăn ngừa, hoặc xác định chúng ở giai đoạn sớm, bạn có nhiều khả năng sống một cuộc sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn, và thỏa mãn hơn.
  • Bệnh di truyền là những bệnh xảy ra do những bất thường về gen hoặc về nhiễm sắc thể. Bệnh được di truyền là bệnh do bất thường về gen ở bố mẹ truyền sang cho con họ. Những bệnh này có thể là bệnh di truyền trội, di truyền lặn, hoặc bệnh di truyền liên kết NST giới tính X. Bệnh về NST là những bệnh gây ra do mất NST, bất thường NST, hoặc thừa NST.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY